TIN VUI

Tuần san Bạn trẻ Công Giáo  -  Số 78 CN 25.03.2007

 

Web site:www.tinvui.org E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

Hoặc : tinvuivietnam@gmail.com

 

Mục lục

 

Chúa Nhật V Mùa Chay Năm C..

25/03/2007.

NIỀM TIN LẠC QUAN..

XIN VÂNG giữa các bi kịch.

PHỎNG VẤN THỨ TRƯỞNG NGOẠI GIAO TÒA THÁNH VỀ CHUYẾN ĐI VIỆT NAM...

Giáo Phận Đàlạt Mừng Lễ Thánh Giuse, Bổn Mạng Giáo Phận.

THÁNH LỄ PHONG CHỨC PHÓ TẾ TẠI GIÁO PHẬN THANH HÓA..

Tấm Khăn mùa chay 2007.

XIN NHIỀU QUÁ LÀ MỘT GÁNH NẶNG?.

Một Chuyến Đi

Tài liệu tĩnh tâm linh mục Giáo phận Phú Cường 2007 ( tiếp theo)

LỜI THỨ HAI “HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở TRÊN THIÊN ĐÀNG VỚI TA” (LC 23,43)

Thánh Phanxicô Possenti, Quan Thầy Chủng Sinh.

PHỤC THIỆN..

BẠN CÓ MUỐN LÀ “NGƯỜI ĐƯỢC YÊU”.

Trang Hồi Ký của Toà Giải Tội

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

Chúa Nhật V Mùa Chay Năm C

25/03/2007

Ga 8, 1-11

"Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi".

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu lên núi cây dầu. Và từ sáng sớm, Người lại vào trong đền thờ. Toàn dân đến cùng Người, nên Người ngồi xuống và bắt đầu giảng dạy. Lúc đó, luật sĩ và biệt phái dẫn đến Người một thiếu phụ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, và họ đặt nàng đứng trước mặt mọi người. Họ hỏi Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, thiếu phụ này bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, mà theo luật Môsê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy sao?" Họ nói thế có ý gài bẫy Người để có thể tố cáo Người. Nhưng Chúa Giêsu cúi xuống, bắt đầu lấy ngón tay viết trên đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người đứng lên và bảo họ: "Ai trong các ngươi sạch tội, hãy ném đá chị này trước đi". Và Người ngồi xuống và lại viết trên đất. Nghe nói thế, họ rút lui từng người một, bắt đầu là những người nhiều tuổi nhất, và còn lại một mình Chúa Giêsu với người thiếu phụ vẫn đứng đó. Bấy giờ Chúa Giêsu đứng thẳng dậy và bảo nàng: "Hỡi thiếu phụ, những người cáo chị đi đâu cả rồi? Không ai kết án chị ư?" Nàng đáp: "Thưa Thầy, không có ai". Chúa Giêsu bảo: "Ta cũng thế, Ta không kết tội chị. Vậy chị hãy đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".  Đó là lời Chúa.

 

NIỀM TIN LẠC QUAN

 

Các kinh sư và những biệt phái dẫn người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu để gài bẫy Ngài. “Trong sách Luật, ông Môsê truyền chúng tôi phải ném đá hạng người này, còn Thầy, Thầy nghĩ sao ?” Một câu hỏi bất ngờ, nham hiểm và lịch sự.

 

Có lẽ sau khi hỏi Chúa như thế, họ hí hửng với những nụ cười hóm hỉnh ranh mãnh. Họ thì thầm với nhau cách thich thú : lần này thì đừng hòng mà thoát. Cái bẫy đã giăng ra. Nếu Chúa bảo cứ ném đá đi thì đó là một lời nói sẽ xoá nhoà tất cả lòng nhân hậu của Chúa : tôi đến để cứu vớt chứ không phải để kết án. Những người tội lỗi ,thu thuế, đặt niềm hy vọng vào Chúa, nếu nghe lời kết án chắc chắn họ sẽ thất vọng và xa lánh, thế thì chỉ có thất bại, mất uy tín. Nhưng nếu Chúa bảo không được ném đá, họ càng vui hơn vì Chúa dám chống lại Luật Môsê, chỉ chờ thế là họ có dư bằng chứng để bắt và lên án Ngài rồi.

 

Thái độ Chúa Giêsu thật trầm tĩnh, cúi xuống lặng lẽ vẽ trên đất. Họ cứ hỏi mãi. Chúa ngẫng lên nói nhẹ nhàng “ ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi”. Họ lặng lẽ rút lui, bắt đầu từ những người lớn tuổi.

 

Chỉ một câu nói mà Chúa đã hoá giải bẫy giăng sẵn. Hoá giải, bởi lẽ Chúa mời gọi họ hãy nhìn vào bên trong tâm hồn.

 

Còn lại một mình Chúa với người phụ nữ. Chúa ngẫng lên nói nhẹ nhàng :tôi không lên án chị đâu ! chị về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa.. Chúa không kết án  nhưng là mở cho chị một con đường đi về phía tương lai, về phía trước.

 

Hai câu nói của Chúa Giêsu với hai hạng người đều nhẹ nhàng mà sâu xa thấm thía. Với các người kết án, Chúa mời họ nhìn vào phía bên trong. Với người bị kết án, Chúa mở ngõ về phía tương lai.

 

1.Lời mời gọi nhìn về phía bên trong

 

Chỉ vài phút trước đó, người ta hung hãn tố cáo đòi ném đá, và bây giờ người ta lặng lẽ rút lui. Một sự chuyển biến bất ngờ phát sinh từ lời mời gọi của Chúa : ai trong các ông sạch tội hãy ném đá người phụ nữ này đi. Khi người ta đòi ném đá tha nhân, người ta tự cho mình là kẻ sạch tội và có quyền lên án kẻ có tội. Nhưng khi người ta khám phá ra mình cũng là tội nhân, người ta không dám lên án nữa vì như thế cũng là tự lên án chính mình. Sự khám phá có được là do cái nhìn về phía bên trong chính mình. Chi tiết mà Thánh Gioan ghi nhận : bắt đầu từ những người lớn tuổi, rất ý nghĩa. Vì càng lớn tuổi càng có bề dày cuộc sống, càng dễ nhận ra bề dày tội lỗi. Càng lớn tuổi càng có cái nhìn nội tâm nhiều hơn.

 

Có những cái gần mình nhất mà mình lại khó thấy nhất. Đó là bản thân mình. Có những sự thật người ta tìm cách trốn chạy nhiều nhất là sự thật về chính mình. Sự thật ấy chỉ khám phá ra được khi nhìn vào phía bên trong. Nhìn vào bên trong là đi vào nội tâm để nhìn lại chính mình, soi gương tâm hồn. Nhìn lại cuộc sống, lời nói, việc làm mình đã làm, đã sống. Giáo hội luôn khuyên con cái mình xét mình mỗi ngày. Các linh mục, tu sĩ, giáo dân đều có thời gian tĩnh tâm, linh thao để biết mình mà sửa mình. Biết mình là đầu mối của sự khôn ngoan.

 

Nhìn vào phía bên trong là một đòi hỏi cần thiết giữa cuộc sống xô bồ, ồn ào với quá nhiều tranh đấu vất vả mưu sinh. Có khi chúng ta ngại vì sợ phải đối diện với chính mình, đối diện với sự thật về mình. Cần có thời gian tĩnh lặng để dâng lễ, cầu nguyện, viếng Chúa. Khi có thời gian nhìn lại chính mình, chúng ta có gương soi và một khoảng cách ngắm nhìn. Tấm gương tốt nhất là Chúa Giêsu. Ngài là ngưởi mẫu, con người lý tưởng nhất. Nơi Ngài và nhờ Ngài mà chúng ta nhận ra những lỗ hổng cuộc đời, nhận ra lý tưởng phải vươn tới.

 

2.Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai.

 

Người ta đòi ném đá người phụ nữ, đóng khung cuộc đời chị trong quá khứ. Quá khứ được đóng dấu bằng tội lỗi. Người ta đánh giá, phán đoán , hành động trên quá khứ đó. Chúa Giêsu không chấp nhận lối nhìn và cách đánh giá ấy. Ngài không đồng loã với tội lỗi. Ngài nhìn nhận người phụ nữ có tội. Nhưng Ngài mở ra một tương lai, gieo vào lòng chị niềm tin tưởng rằng chị có khả năng xây dựng một tương lai mới, một cuộc đời mới ,một con người mới. “Chị hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa”, Chúa Giêsu không kết án cũng như không giảm án, không ân xá cho tội nhân. Chúa mở cho chị một con đường hướng về tương lai, làm lại cuộc đời. Đó là con đường sám hối trở về với tình yêu, trở về với đời sống là con cái Thiên Chúa, trở về với tâm hồn bình an. Người phụ nữ ra về lòng tràn ngập niềm vui hoán cải, quyết tâm làm lại cuộc đời.

 

Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai. Ngài không khoá chặt cuộc đời một con người cũng như lịch sử nhân loại vào quá khứ, cho dẫu quá khứ ấy có bi thảm và tàn tạ đến đâu chăng nữa. Thiên Chúa luôn luôn mở ngõ và vạch lối cho tương lai.

 

Vẫn biết tội lỗi trái với đạo giáo, trái với luân thường đạo lý, nhưng đâu chỉ căn cứ vào đạo giáo luân lý để khinh khi, coi thường, kỳ thị sự sống con người được. Đạo giáo luân lý giúp con người sống thăng tiến về mặt tinh thần chứ không bao giờ là bước cản trở nhận chìm con người xuống bùn đen. Đã là người, ai cũng có những khuyết điểm, cũng có lúc làm điều lầm lỗi. Nhưng ai cũng có khả năng ý chí ước muốn làm điều lành thánh thiện tốt đẹp. Thiên Chúa dựng nên con người với khả năng như thế.

 

Chúa Giêsu đã sống,đã nêu gương. Ngài không kết án, không giảm án, nhưng là mở ra con đường hướng về tương lai cho con người tội lỗi làm lại cuộc đời. Lêvi, Giakêu, Mađalêna, Augustinô…và còn biết bao con người đã được Chúa mở ngõ tương lai tươi sáng. Niềm tin đó tạo nên nơi người tín hữu một lối nhìn mới. Đó là nhìn về phía trước, băng mình về phía trước như thánh Phaolô diễn tả: tôi chỉ chú ý tới một điều là quên đi chặng đường đã qua để lao mình về phía trước (Pl 3,13). Đối với Phaolô quên đi chặng đường đã qua là qua khứ bắt bớ Giáo hội Chúa để lao mình về phía trước, phía tương lai mà Chúa Giêsu đã mở ra, đặt ngài làm khí cụ, làm tông đồ dân ngoại. Và Phaolô đã sống hết mình cho tương lai mới.

 

Trong cách nhìn về tha nhân, có khi chùng ta khoá chặt người khác trong quá khứ lỗi lầm của họ. Đã một thời ”chủ nghĩa lý lịch” khoá chặt con người trong quá khứ, cái quá khứ đâu có do họ !!! Vì lẽ đó mà nhiều nhiều người trẻ tài năng không có cửa cho tương lai, họ bị loại trừ. Con người vốn vẫn hay nhìn phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai lại luôn thúc bách chúng ta nhìn về phía trước.

 

Nhìn vào phía bên trong để khám phá sự thật về chính mình. Người Hy-lạp đã từng gắn trên cổng Đền Thờ Deiphes câu châm ngôn “ Bạn hãy biết chính mình” và coi sự biết mình như là khởi điểm của khôn ngoan.

 

Nhìn về phía đàng trước để luôn hy vọng và tin tưởng. Tin vào chính mình, vào con người, vào cuộc đời. Và trên hết là tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngõ cho tương lai chúng ta.    

                                                         

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

 

Mục lục

 

TU ĐỨC

 

 

XIN VÂNG giữa các bi kịch

 

Gần đến lễ Truyền tin cho Đức Mẹ. Yếu tố quan trọng về tu đức trong lễ này là Đức Mẹ nói lời "Xin vâng" (Lc 1,38).

Cũng sắp đến những ngày tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Yếu tố quan trọng về tu đức trong cuộc tưởng niệm này cũng là lời Chúa Giêsu cầu nguyện "Xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha" (Lc 22,42).

Như vậy, Chúa Giêsu và Đức Mẹ cùng đã xác định ơn gọi của mình là xin vâng thánh ý Chúa Cha.

Lời "xin vâng" của hai Đấng là một định hướng rất rõ ràng và quyết liệt.

Rõ ràng ở chỗ quyết tâm từ bỏ ý riêng mình để vâng phục ý Chúa Cha.

Quyết liệt ở chỗ sẵn sàng phấn đấu để trung thành với ý Chúa Cha, mặc dầu phải đối đầu với thử thách.

Đường tu đức, mà hai Đấng đi qua, đã để lại nhiều kinh nghiệm mà tôi gọi là bi kịch.

Tôi thường nhìn vào những cảnh đó, để biết sống ơn gọi xin vâng của tôi.

1/ Cảnh đổi thay của lòng dân

Khi Chúa Giêsu khai mạc cuộc đời rao giảng công khai của Người, Người đã chọn Nadarét là chính quê hương Người. Ngay trong bài giảng đầu tiên, ban đầu "mọi người đều tán thành và thán phục những lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng Người" (Lc 4,22). Nhưng đến cuối bài "mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành - thành này được xây trên núi. Họ kéo Người lên tận đỉnh núi, để xô Người xuống vực" (Lc 4,28).

Tuần lễ cuối cùng của cuộc đời Chúa Cứu thế đã đánh dấu bằng sự thay đổi lòng dân từ thiện đến ác một cách kinh hoàng.

Đầu tuần, đông đảo dân chúng đón Chúa Giêsu một cách long trọng tự phát: "Người tới đâu, người ta cũng lấy áo mình trải xuống đường... Họ hô lên: Chúc tụng Đức Vua, Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Bình an trên cõi trời cao. Vinh quang trên các tầng trời" (Lc 19,36-38).

Chỉ mấy ngày sau, trong sân tổng trấn Philatô, đám đông lại la ó: "Giết nó đi. Đóng đinh nó vào thập giá" (Lc 23,18-20).

Những thay đổi khủng khiếp trên đây của lòng dân là những bi kịch, Chúa và Đức Mẹ đã nếm. Các Ngài vượt qua một cách bình tĩnh, để chỉ tìm vâng phục ý Chúa Cha.

2/ Sự lạm dụng của nhà cầm quyền

Hồi đó, nhà cầm quyền trong đạo là các thượng tế, kỳ lão và kinh sư. Họ thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ cứu dân thì tìm cách bắt bẻ, buộc tội. Chỉ vì ghen tức (x. Mt 26,3; 59-60).

Nhà cầm quyền trong xã hội lúc bấy giờ là quan Philatô, dù biết Chúa Giêsu là người vô tội, bị giáo quyền trao nộp chỉ vì ác ý, nhưng không dám tha, do động cơ mị dân, sợ đụng chạm, mất quyền (x. Mt 27,24).

Những lạm quyền này cũng là những bi kịch, Chúa và Đức Mẹ đã chịu đựng và vượt qua, để một mực đi về thánh ý Chúa Cha.

3/ Những suy nghĩ chủ quan của những môn đệ thân tín

Phúc Âm nói rõ là Chúa Giêsu đã nhiều lần nhiều cách mạc khải cho các môn đệ thân tín của Người về kế hoạch cứu độ của Người. Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ, sau cùng sẽ bị chết nhục nhã trên thánh giá. Rồi mới phục sinh (x. Mc 10,32-34).

Tuy được cắt nghĩa rõ, các môn đệ vẫn chủ quan, coi như việc đó sẽ xảy ra nhẹ nhàng. Các ngài tỏ ra không quan tâm lắm. Thậm chí người đứng đầu nhóm môn đệ thân tín là thánh Phêrô còn tỏ thái độ phản đối, như một dấu chỉ hợp lý, hợp tình. Tới những giây phút cuối cùng, Chúa Giêsu vào vườn Cây Dầu cầu nguyện trong sự sợ hãi kinh hoàng, các môn đệ vẫn an tâm ngủ. Khi chợt thấy cảnh bi đát xảy ra, các ngài đã bỏ trốn. Thậm chí có người còn chối bỏ Thầy mình (x. Mc 14,32-49).

Tính chủ quan dại dột trên đây của các môn đệ Chúa Giêsu là một bi kịch, gây xót xa vô vàn cho Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Nhưng hai Đấng đã ôm vào lòng như một thánh giá tinh thần. Hành trình đi theo thánh ý Chúa Cha cũng vì thế mà thêm cay đắng. Nhưng các Đấng đã vượt qua, để tuân theo ý Chúa Cha đến cùng.

4/ Sự quyến rũ độc ác của tiền bạc

Cuộc tử nạn của Chúa Giêsu tuy chủ yếu gây nên do lòng ghen ghét của tầng lớp nắm quyền lực tôn giáo bấy giờ. Nhưng nó đã được thực hiện nhờ vai trò tiền bạc. Chính Giuđa, người mà Chúa Giêsu chọn làm quản lý, đã bị tiền bạc quyến rũ. Không ngờ sức quyến rũ của tiền bạc lại quá mạnh, đến nỗi đã khiến Giuđa bán Thầy mình chỉ với giá 30 đồng bạc (x. Lc 22,1-6).

Tiền bạc đã đổi lòng dạ người môn đệ Chúa tuyển chọn một cách quá dễ dàng. Bi kịch này rất thê thảm. Tâm hồn Chúa Giêsu và Đức Mẹ chắc đã rất đau xót khi chạm tới nó. Nhưng các Đấng vẫn vượt qua, để đi về thánh ý Chúa Cha.

5/ Sự khác biệt giữa ý riêng và ý Chúa Cha

Đức Mẹ có ý riêng, Người đã có lúc tỏ ra mình phải phấn đấu bỏ ý riêng để theo thánh ý Chúa (x. Lc 2,48).

Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu đã phấn đấu đến đổ mồ hôi máu ra, để bỏ ý riêng, quyết tâm chọn ý Chúa Cha (x. Mt 26,42).

Trên đây, tôi chỉ nêu lên một số yếu tố thường gây ảnh hưởng đến ơn gọi xin vâng của ta, đó là:

- Sức mạnh của lòng dân,

- Sức mạnh của những người cầm quyền,

- Sức mạnh của những người thân tín,

- Sức mạnh của tiền bạc,

- Sức mạnh của tính tự nhiên trong ta.

 

Những yếu tố trên đây đôi khi khoác bộ mặt đạo đức, bộ mặt ngây thơ, bộ mặt vô tư. Nhưng kinh nghiệm cho thấy rất nhiều trường hợp, những yếu tố ấy thiếu nền đạo đức trong sáng bền vững. Hơn thế nữa, chúng lại dễ bị ma quỷ và các trào lưu tội lỗi lợi dụng, để biến xã hội và Giáo Hội trở thành sân khấu của những bi kịch. Bi kịch lớn nhất là sống giữa nhiều bi kịch mà vẫn nhởn nhơ, không nhận ra được nguy hiểm.

Những ai sống ơn gọi xin vâng nên biết rõ tình hình đó đang xảy ra hiện nay xung quanh ta và có thể là nơi chính mình ta. Hãy khiêm tốn tỉnh thức, cầu nguyện, tìm ánh sáng và sức mạnh nơi lời xin vâng của Đức Mẹ và Chúa Giêsu.

Với ánh sáng và sức mạnh ấy, chúng ta sẽ phân biệt rõ đâu là thánh ý Chúa thực sự, đâu là thánh ý Chúa giả tạo. Đồng thời chúng ta cũng sẽ biết tìm nương tựa vào đâu để trung thành với ơn gọi xin vâng, chứ không tìm điểm tựa ở những thế lực mong manh, nhiễu nhương, cơ hội.

+ GM JB Bùi Tuần

Mục lục

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

                                                            

 

PHỎNG VẤN THỨ TRƯỞNG NGOẠI GIAO TÒA THÁNH VỀ CHUYẾN ĐI VIỆT NAM

 

Từ ngày 5 đến 11-3-2007, Phái đoàn Tòa Thánh đã viếng thăm Việt Nam. Ngoài cuộc gặp gỡ Ban thường vụ HĐGM Việt Nam và làm việc với Ban tôn giáo chính phủ, cũng như chào thăm một số quan chức Nhà Nước Việt Nam, Phái đoàn còn viếng thăm giáo phận Qui Nhơn và Kontum, thăm Giáo Xứ Hòn Gai ở Hạ Long và cử hành thánh lễ tại Nhà thờ chính tòa Hà Nội. Để bổ túc Thông Cáo báo chí của Phủ Quốc vụ khanh Tòa Thánh công bố hôm 12-3-2007 sau khi Phái đoàn Tòa Thánh về tới Roma, Đài Vatican đã phỏng vấn Đức Ông Pietro Parolin, Thứ Trưởng ngoại giao và cũng là trưởng Phái đoàn Tòa Thánh trong chuyến đi vừa qua.

H. Thưa Đức Ông, đâu là mục đích cuộc viếng thăm vừa qua của Phái đoàn Tòa Thánh tại Việt Nam?


Đ. Từ năm 1989, tức là năm có cuộc viếng thăm của ĐHY Etchegaray, cho đến ngày nay, đã có 14 cuộc viếng thăm của Phái đoàn Tòa Thánh tại Việt Nam, phần lớn do các vị Thứ trưởng ngoại giao hướng dẫn, bấy giờ là Đức Ông Celli, rồi tới Đức Ông Migliore (nay các vị là TGM). Đối với tôi, đây là lần thứ hai tôi viếng thăm Việt Nam, sau cuộc viếng thăm hồi năm 2004. Năm ngoái, 2005, Phái đoàn Việt Nam đến Roma, và năm ngoái 2006, tôi không thể đi được vì có những thay đổi tại Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Cùng đi với tôi vừa qua có Đức Ông Luis Mariano Montemayor, Tham tán Sứ Thần phục vụ tại Phủ Quốc vụ khanh, và Đức Ông Barnabê Nguyễn Văn Phương, người Việt Nam, Chủ sự tại Bộ truyền giáo. Như đã biết, các cuộc viếng thăm này chủ yếu có hai mục đích: tiếp xúc với chính quyền Việt Nam, và gặp gỡ với Giáo Hội địa phương. Trong thực tế, trong một tuần lễ, Phái đoàn Tòa Thánh thi hành những công tác mà, tại các nước khác, vẫn được ủy thác cho các vị đại sứ của ĐTC, xét vì tại Việt Nam chưa có một vị Đại diện của ĐGH. Các công tác đó là đối thoại với chính quyền về những vấn đề liên quan tới Giáo Hội và quan hệ giữa Giáo Hội và Nhà Nước; còn cuộc viếng thăm của Phái đoàn tại một vài giáo phận là một cách thức để ”củng cố và làm cho mối liên hệ hiệp nhất giữa Tòa Thánh và các Giáo Hội địa phương hữu hiệu hơn”. Năm nay, chúng tôi đã viếng giáo phận Quy Nhơn và Kontum, thuộc giáo tỉnh Huế, ở miền Trung Việt Nam, hai giáo phận này cho đến nay chưa được phái đoàn Tòa Thánh viếng thăm. Cuộc viếng thăm của Phái đoàn Tòa Thánh chắc chắn là một cách thức hữu hiệu để tiếp xúc và đối thoại, trong gần 20 năm qua, đã giúp đạt được những bước tiến đáng kể theo chiều hướng đó; về phần chúng tôi, chúng tôi cầu mong rằng cuộc viếng thăm như thế có thể tiến đến những hình thức hiện diện bền vững và thường xuyên hơn của một vị Đại diện ĐGH tại Việt Nam, cho đến khi có sự thiết lập quan hệ ngoại giao và với việc bổ nhiệm một vị Sứ Thần Tòa Thánh.


H. Vậy theo Đức Ông, cuộc gặp gỡ mới đây của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng với ĐTC có ảnh hưởng gì tới cuộc viếng thăm vừa qua của Phái đoàn Tòa Thánh tại Việt Nam hay không?


Đ. Tôi có thể nói rằng, trong cuộc viếng thăm thứ hai này, tôi thấy cũng có sự đón tiếp nồng nhiệt mà tôi đã cảm nghiệm trong lần thứ nhất hồi năm 2004. Với những người gặp gỡ, chúng tôi tiếp tục tìm cách kiến tạo những mối liên hệ tôn trọng, quí chuộng và tín nhiệm, là những điều vốn được xã hội Việt Nam đề cao, và làm cho cuộc đối thoại trở nên dễ dàng hơn, nhất là trong những vấn đề gai góc. Đàng khác, tôi tin rằng người ta đã muốn đặc biệt nêu bật cuộc viếng thăm này trong liên hệ với cuộc viếng thăm của Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng hồi tháng giêng năm nay, cuộc gặp gỡ của thủ tướng với ĐTC và các vị lãnh đạo Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Chúng tôi nhận thấy điều đó qua bao nhiêu chi tiết đặc biệt, từ cách thức chúng tôi được đối xử cho đến các bài tường thuật của các cơ quan truyền thông về sự hiện diện của chúng tôi. Về điểm này tôi thiết nghĩ thật là điều đúng đắn khi công khai bày tỏ lòng biết ơn đối với chính quyền Việt Nam. Tiếp đến, người ta đã nói đích thị về cuộc viếng thăm của Thủ Tướng trong nhiều trường hợp, kể cả trong bối cảnh Giáo Hội - ví dụ, tôi nhớ một đại diện của giáo dân đã nói rõ ràng với chúng tôi về điều đó trong lời chào mừng chúng tôi vào cuối thánh lễ tại Nhà thờ Chính Tòa Hà Nội - nêu bật tầm quan trọng của biến cố đó và bày tỏ tin tưởng rằng biến cố ấy có thể đánh dấu một giai đoạn quan trọng trên con đường với ý chí hướng nhìn về đằng trước, hướng về tương lai, vượt qua những khó khăn vẫn còn hiện nay.


H. Trong cuộc viếng thăm của Phái đoàn Tòa Thánh có bàn về viễn tượng có thể lập quan hệ ngoại giao trong tương lai gần đây giữa Tòa Thánh và Việt Nam hay không?


Đ. Vấn đề quan hệ ngoại giao có được nói tới, nhưng trong lúc này không có ấn định thời điểm. Có lẽ có những người mong đợi có những tiến bộ quan trọng hơn về vấn đề này, xét vì trong cuộc viếng thăm của Thủ Tướng Việt Nam tại Vatican vấn đề đó đã được ĐHY Quốc Vụ Khanh đích thị nêu lên và trước đây, nhiều nhân vật chính trị ở Việt Nam cũng đã tuyên bố ủng hộ và Giáo Hội địa phương cũng đã bày tỏ sự ủng hộ. Dầu sao, tôi tin tường đó là một bước tiến đáng kể, vì từ phía Việt Nam đã có nhắc lại rằng Thủ Tướng Việt Nam, như chính ông đã hứa ở Roma, đã ra chỉ thị có các cơ quan thẩm quyền cứu xét vấn đề và chúng tôi được đề nghị, trong những tháng tới đây, thành lập một nhóm chuyên gia có nhiệm vụ nghiên cứu thời điểm và thể thức cụ thể để khởi sự tiến trình thiết lập quan hệ ngoại giao. Về vấn đề này, tôi muốn nhắc lại rằng để thiết lập quan hệ ngoại giao, không đòi phải giải quyết trước đó tất cả các vấn đề còn tồn đọng. Quan hệ ngoại giao không phải chỉ là một điểm tới, nhưng đúng hơn đó là một điểm khởi hành. Khi lập quan hệ ngoại giao, người ta đưa ra một dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy mình muốn có những quan hệ hỗ tương một cách xây dựng, đồng thời loại trừ những gì còn gây khó khăn. Với quan hệ ngoại giao, qua sự trao đổi các đại diện với nhau, hai bên có những con kênh ưu tiên để có thể có sự thông tin cho nhau một cách mau lẹ và đúng đắn, đó là điều quan trọng để có thể nuôi dưỡng những quan hệ tốt với nhau”.


H. Thưa Đức Ông, trong các cuộc nói chuyện của Phái đoàn Tòa Thánh với chính quyền Việt Nam, có đề cập đến vụ cha Nguyễn Văn Lý hay không?


Đ. Có, trong các cuộc nói chuyện, chúng tôi đã hỏi những vị đối thoại với chúng tôi tin tức về vụ phức tạp là vụ Cha Lý, như đã biết cộng đồng quốc tế rất quan tâm tới vấn đề này. Chúng tôi ghi nhận những thông tin mà phía Việt Nam đã cho chúng tôi. Phái đoàn Tòa Thánh đã nêu ý kiến rằng cần phải đảm bảo cho cha Lý một cuộc xét xử đúng đắn, để cha ấy có cơ hội tự biện hộ, và trong tư cách là linh mục, cho phép cha ấy được có những tiếp xúc với các Bề trên của cha trong Giáo Hội.


H. Đức Ông có thể chia sẻ với chúng con những cảm tưởng của Đức Ông về những tiến bộ liên quan tới tự do tôn giáo ở Việt Nam hay không?


Đ. Tôi thấy rằng tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam cũng là tình hình đã được mô tả trong thông cáo báo chí được Tòa Thánh công bố vào cuối cuộc viếng thăm của Thủ Tướng Việt Nam nơi ĐTC. Thông cáo đó có nói đến ”những môi trường đã được mở ra” và tôi có thể đoan chắc rằng, dựa theo chứng từ của các GM Việt Nam, một số vấn đề đã được giải quyết, và một số vấn đề khác đang trên đường được giải quyết. Ví dụ tôi muốn nói đến vấn đề tái thiết các nhà thờ bị phá hủy trong thời chiến tranh và việc kiến thiết các nơi thờ phượng mới nơi có dân chúng di cư tới lập nghiệp. Đối với những vấn đề còn bỏ ngỏ, chúng tôi hy vọng, qua sự đối thoại và thiện chí, cũng sẽ đi tới một giải pháp thỏa đáng. Như chúng ta biết, chính sách tôn giáo của chính phủ Việt Nam được ấn định trong Pháp lệnh về tín ngưỡng và tôn giáo ban hành ngày 18-6-2004, xoay quanh hai nguyên tắc theo đó, các tín hữu - trong đó có các tín hữu Công Giáo - là thành phần trọn vẹn của Quốc gia và Nhà nước dấn thân đáp ứng các yêu cầu hợp pháp của họ. Trong các cuộc gặp gỡ với Ban tôn giáo, chúng tôi đã được thông báo về tình trạng áp dụng Pháp lệnh ấy, và có cả một tập sách nhỏ được ấn hành về vấn đề này với tựa đề ”Tôn giáo và các chính sách liên quan tới tôn giáo tại Việt Nam - Religion and policies religion in Vietnam”. Vì nhiều thẩm quyền trong vấn đề tôn giáo được ủy cho chính quyền địa phương, nên điều quan trọng là làm sao luôn bảo đảm cho có một sự áp dụng đồng nhất luật pháp, để các miền quê xa xôi hẻo lánh khỏi bị thiệt thời, so với các vùng thành thị và phát triển nhiều hơn. Tôi thấy điều quan trọng là cần để ý tới những nhận xét của các cộng đồng tôn giáo về việc áp dụng luật pháp, những nhận xét này dựa trên kinh nghiệm và cho phép cải tiến luật pháp tại những nơi nào cần, để cho tự do tôn giáo, vốn là một quyền căn bản của mỗi người và các cộng đoàn, luôn luôn được tôn trọng và áp dụng trong thực tế.


H. Đâu là cảm tưởng của Đức Ông về đời sống Giáo Hội tại Việt Nam?


Đ. Tôi đã nói trong nhiều dịp, trong các cuộc gặp gỡ với các tín hữu, rằng điều mà chúng tôi đã nhận được nhiều hơn những gì chúng tôi đã cho. Thực vậy, người ta không thể không cảm động và được khích lệ vì tấm gương và chứng từ của các tín hữu Công Giáo Việt Nam. Đôi mắt và tâm hồn tôi như còn đầy những hình ảnh về các buổi lễ phụng vụ ở Quy Nhơn, Pleiku, Hà Nội, v.v. rất đông tín hữu, phần lớn thuộc các bộ lạc người dân tộc, người thượng, họ tập họp vào ban chiều tối ngày 8-3 trước nhà thờ chính tòa Kontum, hình ảnh cộng đồng giáo xứ Hạ Long rất sốt sắng, đã từng phải chịu nhiều đau khổ. Tôi có ấn tượng rất mạnh về cách cầu nguyện của các tín hữu, rất sốt sắng, chăm chú, sùng kính, nhưng đồng thời rất dấn thân trên bình diện cộng đoàn, vì tất cả mọi người, trẻ em, người lớn, người già người trẻ, nam giới nữ giới hát và thưa đồng đều. Tôi không thể không nhắc tới lòng kính yêu của các tín hữu Công Giáo Việt Nam đối với ĐTC, trong cuộc viếng thăm của Phái đoàn Tòa Thánh, các tín hữu đã liên tục bày tỏ lòng gắn bó con thảo và trung thành đối với ĐTC. Giáo Hội Việt Nam là một Giáo Hội can đảm năng động, đầy sức sống, và một trong những dấu chỉ chứng tỏ điều đó là có rất đông ứng sinh linh mục và đời tu. Tiếp đến, đó là một Giáo Hội dấn thân xây dựng xã hội, chăm sóc những người túng thiếu, đồng thời mong muốn có thể dấn thân nhiều hơn nữa trong lãnh vực giáo dục và xã hội, để mang lại một đóng góp có phẩm chất cao hơn và hiệu năng hơn cho đất nước và cho mọi người dân, không phân biệt họ có tín ngưỡng hay không, hoặc thuộc nhóm tôn giáo này hay tôn giáo khác. Sau cùng, đó là một Giáo Hội ý thức về những vấn đề có liên hệ tới sự công nghệ hóa mau lẹ của Đất nước, tới sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, Việt Nam có mức phát triển kinh tế là 8,4% dự kiến cho năm 2007 này, tức là đứng thứ hai về tỷ lệ phát triển kinh tế mau lẹ trên thế giới, Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam muốn chuẩn bị để đương đấu với thách đố ấy và tiếp tục là muối và là men, và soi sáng cho mọi người qua việc hân hoan loan báo Tin Mừng.



 

LM Trần Đức Anh, O.P.

Radio Vatican

 

Mục lục

 

 

 

Giáo Phận Đàlạt Mừng Lễ Thánh Giuse, Bổn Mạng Giáo Phận

Chiều ngày19.3.2007, Đức Cha Phêrô, Giám mục Giáo phận Đàlạt, đã đến dâng Thánh lễ trọng thể mừng kính Thánh Cả Giuse tại nhà thờ Chánh Tòa Đàlạt, có hơn 50 Linh mục của 5 Giáo hạt cùng đồng tế với Đức Cha. Rất đông tu sĩ các hội dòng, chủng sinh và khoảng 2000 giáo dân đại diện các Giáo xứ cùng tham dự Thánh lễ. Sự hiện diện đông đảo này biểu lộ phần nào lòng sùng kính Thánh Cả Giuse. Hơn nữa vì : “Tại nơi đây và cũng vào ngày này cách đây 31 năm, Đức Cha cố Batôlômêô đã sốt sắng dâng Giáo phận Đàlạt cho thánh Giuse, ngay lúc ấy chúng ta không biết chuyện gì chờ đợi và sẽ xảy ra. Nhưng sau 31 năm, chúng ta cảm nghiệm sâu xa cử chỉ dâng hiến khiêm tốn nhưng đầy tin tưởng đã được chấp nhận: Giáo phận sống trong sự che chở phù trì của thánh Giuse, vì việc làm đó đẹp lòng Chúa, tôn vinh Chúa và phục vụ các linh hồn. Hãy tiếp tục sống tinh thần dâng hiến đó.

 

Thánh lễ mừng kính Thánh Cả Giuse

 

Hôm nay cũng là Bổn mạng của Giáo hội toàn cầu, chúng ta nhớ đến Bổn mạng của Đức đương kim Giáo Hoàng (Joseph Ratzinger), nhớ đến Bổn mạng của Giáo hội Việt Nam, Bổn mạng của các Gia trưởng, Bổn mạng của Hội dòng Mến Thánh Giá…” (lời của Đức Cha vào đầu Thánh lễ).


Qua các bài đọc Lời Chúa, Đức Cha Phêrô đã chia sẻ cùng cộng đoàn tham dự về sứ mạng cao cả của Thánh Giuse, sứ mạng ấy được Đức Cha tóm lại trong hai vấn đề thiết yếu :


1. Phải có Giuse và Giuse phải thi hành cách thánh thiện chương trình của Thiên Chúa để Đức Maria trở nên người mẹ của Chúa Giêsu một cách thánh thiện. Đó là điều mà Thiên Chúa chờ đợi nơi Giuse.


2. Người ta sẽ nhận ra được Giêsu, Ngôn Sứ của Thiên Chúa, nếu xuất thân từ dòng tộc Đavít. Thánh Giuse đã là chiếc cầu nối, để Chúa Giêsu thực hiện sứ mạng cứu thế khi mang trong mình dòng máu của vua Đavít.


Bên cạnh đó, Đức Cha còn mời gọi mọi người khi tôn kính một vị thánh, chính là để noi theo gương sống của Vị thánh ấy trong cuộc đời của mình. Đặc biệt, với các Gia trưởng, hãy nhìn vào thánh Giuse để biết Lắng nghe và thi hành Lời Chúa; để biết sống đúng "Tinh thần gia trưởng" theo gương thánh Giuse là : "Ngài không la mắng, không đòi hỏi, không ra lệnh, luôn là người phục vụ âm thầm, khiêm tốn, thánh thiện, nhưng phục vụ cách mạnh mẽ".


Cũng cần nhắc lại, từ những ngày đầu tháng Ba, tháng kính Thánh Cả Giuse, các Gia trưởng tại các Giáo xứ đã có nhiều việc làm đạo đức cũng như chuẩn bị tâm hồn qua các buổi thống hối, dọn mình mừng lễ Bổn mạng thật sốt sắng.


Nguyện xin Thánh Cả Giuse : " cứu chữa lấy Hội Thánh, cho khỏi các mưu kế giặc thù, và các sự gian nan khốn khó như vậy, cùng xin Người hằng bầu cử cho chúng con được bắt chước Người, và trông cậy vì quyền thế Người, cho được giữ đạo cho trọn, cùng được chết lành, và được hưởng phúc vô cùng trên thiên đàng. Amen" (Trích kinh Ông Thánh Giuse bầu cử).(www.simonhoadalat.com)

 

Tứ Linh

 

THÁNH LỄ PHONG CHỨC PHÓ TẾ TẠI GIÁO PHẬN THANH HÓA


THANH HÓA -- Dưới làn mưa xuân nhè nhẹ vào sáng ngày 17/03/2007, trên dưới 6.000 người đã qui tụ tại khuôn viên nhà thờ Chính Tòa Thanh Hóa để tham dự Lễ Thánh Giuse Bạn Trăm Năm Đức Maria- Quan thầy Giáo phận và Quan Thầy của Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh. Những cánh áo đủ màu, những nét mặt hân hoan…Vì ngoài những niềm vui nói trên, mảnh vườn ơn gọi của Giáo phận lại có thêm những hoa trái lừng hương, đó là 10 thầy khóa VI sẽ được lãnh nhận chức Phó tế trong Thánh lễ hôm nay.

 

Đúng 9g, đội kèn Giáo xứ Ba Làng tấu khúc trầm hùng ngợi ca Thánh Giuse mở đầu cho cuộc rước, hàng ngàn người đứng trang nghiêm để đón chào đoàn đồng tế trên 50 Linh mục trong và ngoài Giáo phận. Trước khi bước vào Thánh lễ, Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh mời mọi người hướng về bàn thờ Thánh Giuse. Cùng với nén hương trầm là lời cầu nguyện của Vị chủ chăn thay cho toàn thể Giáo phận : “Kính lạy Thánh Giuse, đại gia đình Giáo phận Thanh Hóa đến trước bàn thờ Thánh Cả, để một lần nữa, chúng con tuyên xưng ngài là Bổn mạng của Giáo phận chúng con, xin Thánh cả phù hộ và đón nhận lòng thành của con dân Giáo phận Thanh Hóa, tấm lòng tri ân và lời cầu nguyện. Nén hương trầm chúng con dâng lên Thiên Chúa, xin được hiệp lời cùng Thánh cả để ca tụng Ngài. Xin Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tiếp tục che chở mọi vùng lãnh thổ trong Giáo phận, các cộng đoàn, giáo xứ, giáo họ, từng gia đình và từng người chúng con. Chúng con đồng bái lạy”. Cùng với Vị Chủ chăn, mọi người cúi mình đầy trang trọng, đầy lòng kính mến đối với Vị Thánh Quan Thầy Giáo phận.


“CON CÓ CHA NHƯ NHÀ CÓ NÓC”


Cha Đại diện Phêrô Vũ Tiến Phúc đã đại diện để mừng Bổn mạng Đức Cha Giuse, ngài cho rằng : “Qua lời cầu bầu thần thế của Thánh Cả Giuse, cũng vào ngày này năm xưa, Chúa đã đưa Cha Đắc Lộ cập Cửa Bạng Thanh Hóa, thì hôm nay, Ngài cũng dẫn dắt người con ưu tú của Giáo phận – Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh- về phục vụ tại quê hương. Hôm nay qua tay Đức Cha, Thiên Chúa sẽ làm tăng số hàng giáo sĩ phục vụ tại quê nhà. Giờ phút này, mọi con tim đang hướng về đây, con xin thay mặt Giáo phận chúc mừng lễ Bổn mạng Đức Cha, xin Thánh Giuse giữ gìn Đức Cha như đã gìn giữ Chúa Giêsu nơi gia đình Nagiaret”. Bó hoa tươi thắm trong tay Vị Cha chung được đưa cao để vẫy chào và cám ơn tất cả mọi người.


Mở đầu Thánh lễ, Đức Cha Giuse long trọng nói : “ Tôi được hân hạnh thay mặt Giáo phận để chủ trì buổi tiệc Thánh Thể hôm nay. Tôi xin đại diện cho tất cả mọi người để gởi lời chào mừng đến Dòng Mến Thánh Giá Thanh Hóa, các giáo xứ, các Cha, các Thầy, và tất cả những ai mang tên Thánh Giuse. Chúng ta không chỉ cầu chúc, mà còn muốn tỏ lòng quí mến nhau qua hiến tế bàn thờ. Hôm nay, với sự hiện diện đông đủ của mọi thành phần, chúng ta long trọng cử hành Lễ Bổn mạng trong cấp bậc Giáo phận…Qua thánh lễ này, 10 chủng sinh sẽ được phong chức Phó tế. Phải chăng đó là của lễ đặc biệt dâng kính Thánh cả Giuse? Phải chăng đó là dấu chỉ tình thương của Chúa dành cho Giáo phận qua lời cầu bầu đắc lực của Thánh cả?” Ngài kêu gọi mọi người cầu nguyện đặc biệt cho các tiến chức.

 

Trong bài giảng lễ, Đức Cha Giuse đã nhắc đến công ơn của Thánh Giuse trong việc khai mở Giáo phận qua việc đoàn thuyền cha Đắc Lộ cập bến Cửa Bạng Thanh Hóa vào ngày 19/03/1627. Và ngài rất xác tín cho rằng : “Hạt giống Tin Mừng đã gieo vào lòng đất quê hương chúng ta trong một ngày mưa gió, Giáo phận chúng ta được khai sinh trong những gian khó, nhưng lịch sử đã chứng minh, nhờ lời bầu cử của Thánh Giuse, Chúa đã biến bão tố thành bình yên, Giáo phận Thanh Hóa vẫn, đã và đang tồn tại với niềm tin không bao giờ tắt, niềm hy vọng vào tương lai vẫn luôn mãnh liệt. Những người đi trước đã mơ một Giáo phận hùng mạnh. Giáo phận chúng ta hôm nay là hiện thực cho giấc mơ của các bậc tiền bối”.


CỦA LỄ TINH TUYỀN


Rồi cũng đến những phút giây đầy cảm động, khi mọi người được chứng kiến hình ảnh những người trai trẻ đầy sức sống của tuổi thanh xuân đã mau mắn và quyết liệt bước lên bàn thờ, hiến tế cuộc đời cho “sứ mạng cứu thế”. Đó là các thầy :


1. Giuse NGUYỄN VĂN BA
2. Phêrô VŨ VĂN CUNG
3. Giuse PHẠM VĂN DUẪN
4. Phaolô TRẦN VĂN NAM

5. Phêrô ĐINH VĂN NGHĨA
6. Giuse TRỊNH VĂN NGỌC
7. Giuse PHẠM TIẾN PHƯƠNG
8. Phêrô NGUYỄN VĂN TÁM
9. Giuse NGUYỄN ĐỨC THANH
10. Phêrô NGUYỄN VĂN TỨ

 

Hình ảnh các tiến chức nằm phủ phục trên mặt đất như tái xác nhận rằng, từ nay các thầy đã chết đi cho thế gian, để bắt đầu một cuộc sống mới cho Thiên Chúa và sứ mạng được Ngài trao phó. Những bó hoa tươi thắm được trao tận tay các thầy trong tràng pháo tay nồng nhiệt, nhưng trên những khuôn mặt mới hôm nay, dường như vẫn đượm đôi chút ưu tư về một tương lai đầy thách đố đang chờ đợi. Bởi vinh quang của người môn đệ Đức Giêsu không phải là vòng nguyệt quế, nhưng là những vòng gai nhọn…


Giáo phận Thanh Hóa vui mừng vì có thêm những vị chủ chăn đầy hứa hẹn, Linh mục đoàn hân hoan bởi có thêm những anh em cùng sớt chia sứ vụ. Nhưng trong niềm vui ấy, mỗi người chúng ta không quên cầu xin cho các thầy, dù phải băng mình giữa những khó nguy, vẫn luôn trung thành với tình yêu Chúa, với lý tưởng mình đã quyết tâm chọn lựa. Để cánh đồng mênh mông của Giáo phận Thanh Hóa có thêm nhiều tay thợ gặt lành nghề, mang về cho Chúa, cho Giáo phận những mùa gặt bội thu.


tgmth.com

Hương Đăng

 

Mục lục

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Tấm Khăn mùa chay 2007

Hằng năm Hội Misereor bên Đức vào mùa chay thường in Tấm Khăn mùa chay, làm Logo cho chiến dịch kêu gọi mọi người nhớ đến mùa chay là mùa chia sẻ, làm việc từ thiện bác ái giúp đỡ những người nghèo khổ trên thế giới, mà Hội hằng năm phát động xin cùng tiếp tay trợ giúp.

 

Năm nay Hội chọn Tấm Khăn mùa chay do nhà nghệ thuật người Trung Hoa Li Jinyuan vẽ. Tấm khăn được vẽ theo tinh thần bài giảng Tám mối phúc thật của Chúa Giêsu ( Mt 5,1-12).

 

Mầu vàng chói sáng cùng mầu đỏ trên khắp Tấm Khăn tạo nên khung cảnh tưng bừng sống động, khiến mầu đen cùng mầu xám nơi các hình trong đó bị mờ nhạt yếu kém đi.

 

Cây Thánh gía lớn do luồng ánh sáng phản chiếu tỏa ra bao phủ trời và đất. Ở trung tâm là Chúa Giêsu Kitô. Ngài đứng như bén rễ vào lòng núi đồi và trổi vượt lên khỏi đỉnh cao của núi.

 

Mầu vàng cùng mầu da cam chiếu tỏa sức sống tươi vui từ Chúa Giêsu ra tới con người. Tay trái đặt trên ngực nơi vị trí của trái tim. Theo người Trung Hoa, trái tim biểu lộ cung cách hướng về con người mỗi khi họ gặp nhau. Chúa Giêsu xuất hiện rao giảng như Thầy dậy cho đời sống và dân chúng kinh ngạc về Ngài.

 

dưới chân ngài một đám lửa cháy chiếu sáng và bên dưới đó có một dấu khắc triện đỏ hình chữ nhật theo nghệ thuật Trung Hoa. Trên dấu triện đỏ ghi khắc dòng chữ của Lão Tử: Lòng nhân ái cao cả nhất giống như dòng nước.

 

Lửa và nước theo quan niệm văn hóa tây phương là hai yếu tố trái ngược nhau. Trong văn hóa Trung Hoa có tới năm yếu tố, như một vòng tròn xoay quanh nhau: lửa, nước, đất, gỗ và sắt. Có thễ một yếu tố trổi vượt hơn yếu tố khác, nhưng nó lại phụ thuộc vào yếu tố khác. Như nước dập tắt lửa, nhưng nước lại bị (được) đất thẩm hút đi.

 

Lửa trong Tấm Khăn này mang ý nghĩa chỉ về Nước Thiên Chúa, nơi mọi sự được đổi mới và những điều cũ bị thiêu đốt đi.

 

Dưới nền Tấm Khăn là biển rộng bao la, dòng nước sâu thẳm. Nước là hình ảnh biểu tượng trong văn chương của Lão-Tử: Nước là hình ảnh của sự khôn ngoan và lòng dũng cảm. Nước bao phủ cuốn trôi đi những chướng ngại vướng trở chắn ngang đường nó đi qua, và tự uốn khúc tìm đường đi lối thoát tiếp tục chảy đi.

 

Theo nhà nghệ thuật danh họa Li Jinyuan, nước là hình ảnh chỉ về Chúa Giêsu: nước hiền hòa, không khác biệt với những cái khác, và cũng không hấp tấp làm ngay. Nước đứng trên tất cả, dù có lợi hay bất lợi.

 

Chúa Giêsu không muốn con người đối xử với nhau bằng quyền lực sức mạnh, nhưng bằng lòng nhân ái. Bằng nước và Thánh Thần, Chúa Giêsu đã được rửa tội bên dòng sông Jordan. Sau khi lên khỏi nước, Thánh Thần Thiên Chúa ngự xuống trên Chúa Giêsu. Trời mở ra và dưới đất, nước Thiên Chúa xuất hiện. Dòng nước sự sống bật lên từ Chúa Giêsu.

 

Xa xa vượt khỏi mặt biển là ngọn núi nổi lên. Từng đoàn người từ khắp bốn hướng phương trời tuôn đến đó nghe Chúa Giêsu giảng dậy. Từ trên núi Chúa Giêsu giảng cho họ về tình yêu thương, và lòng thương cảm của Ngài với những phiền muộn lo âu, với những đau khổ họ gánh chịu trong đời sống.

 

Bốn hình tròn ở bốn góc biểu tượng cho bốn phúc thật ( từ góc trên phía phải theo vòng kim đồng hồ): Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì nước Trời là của họ ( Mt 5,10) – Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. ( Mt 5,9) – Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được dất hứa làm gia nghiệp. ( Mt 5,4) – Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì nước trời là của họ. ( Mt 5,3).

 

Mùa chay 2007

 

Lm. Nguyễn ngọc Long

viết dựa theo www.misereor.de

 

Mục lục

 

 

XIN NHIỀU QUÁ LÀ MỘT GÁNH NẶNG?

Bản thân tôi đang phụ trách một địa bàn mục vụ khá lớn : gồm 3 huyện trọn và 4 xã của một huyện khác thuộc tỉnh Daklak. Vì thế bà con tín hữu tạm gọi là đa diện và nhiều xuất xứ. Trong đó có một số bà con di dân từ miền Bắc vào, vì sinh kế. Có lẽ do thói quen hay tập quán giao tiếp, tạm gọi là đạo đức của mình nên mỗi lần đến gặp tôi, linh mục quản xứ, để trình bày nhu cầu nào đó, bà con thường mào đầu bằng các câu : “Chúng con xin trông ơn cha” hay “xin cha thương ban”… Quả thật đã hơn một lần tôi không kìm được sự khó chịu nên đã buột miệng : “nếu anh chị em còn nói những câu như thế thì tôi không giải quyết chuyện gì cả”. Dĩ nhiên, sự thường sau cơn nắng nóng, trời lại dịu mát. Tôi cố dịu giọng giải thích : “giả như có một ai đó là lương dân hay bà con khác đạo ở đây, nghe thấy thì họ nghĩ ông cha này ra sao đây ? Ông ta chắc là khó tính, hà khắc hay là bủn xỉn, keo kiệt dữ lắm ?” Nếu không tại sao người ta cứ xin xỏ, cứ trông ơn miết vậy. Chuyện bà con lương dân, anh chị em khác đạo đến xin cho con cái theo đạo để kết hôn với người Công giáo ở cái xứ rộng lớn này quả không ít.

Từ dữ kiện đời thường trên, ta thử lần lên chuyện giữa ta với Thiên Chúa, giữa ta với những vị, những đấng bậc đang cầm quyền trong Hội Thánh cũng như ngoài xã hội.

Chuyện giữa ta với Thiên Chúa. Chúa Giêsu dạy ta là hãy cầu nguyện liên lỉ nhưng không thấy Người dạy ta là hãy liên lỉ mở miệng cầu xin. Cái gì cũng xin, hết xin Chúa ban ơn lành rồi lại xin Người tha thứ tội lỗi.

Không ai chối cãi chuyện cần phải cầu xin. Trong kinh “Lạy Cha”, lời kinh duy nhất mà Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện thì chữ “xin” xuất hiện nhiều lần. Trong các kinh nguyện của các cử hành Phụng Vụ thì lời cầu xin không thể nói là ít được. Ta phải xin để ý thức rằng mọi sự là do ân sủng Chúa ban (tout est grâce ). “ Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công…” ( Tv 126 ). Tuy nhiên, nếu không để ý thì việc mãi miết cầu xin, thậm chí mãi miết cầu xin Chúa tha tội, xin Chúa ban ơn, đích thị là một lỗi lớn, có khi là tội lớn. Hễ cầu nguyện là cứ cầu xin thì vô tình ta có thể ta phạm hai tội lớn.

Tội thứ nhất : Làm biến dạng chân dung của Thiên Chúa ta thờ. Thay vì tôn thờ một Thiên Chúa là Cha nhân hậu, giàu lòng xót thương, chậm bất bình và rất mực khoan dung thì ta đã vẽ trong tâm trí mình một vị thần hà khắc, chờ con người sai lỗi để trừng phạt và có khi phạt cả con cháu đến ba bốn đời. Thay vì tôn thờ một Thiên Chúa là người cha trên các người cha vốn biết con cái mình cần những gì và sẵn sàng ban phát điều tốt nhất thì ta đã hình dung Chúa như một vị thần keo kiệt bủn xỉn hay như một ông chủ gặt chỗ không gieo, thu nơi không phát.

Tội thứ hai : Tự biến mình thành người nô lệ chứ không phải là con cái. Ở trong nhà Cha mà ta cứ hành xử như mình là người làm thuê hay là người nô lệ. Phải xin nhiều thì mới được nhậm lời thì ta vô tình hay hữu ý quên rằng của Cha cũng là của con. Trong Đức Kitô, chúng ta đã được thừa hưởng gia tài Chúa hứa ban thế mà ta làm như mình không được chút quyền nào cả. Cứ mãi cầu xin Chúa tha thứ thì ta quên rằng Chúa đã tha cho ta ngay cả khi ta còn là tội nhân. Quên điều này thì ta cũng dễ quên rằng Chúa đã ban cho ta cái quyền được hưởng tình thương tha thứ của Chúa bằng cách tha thứ cho anh em, bằng cách đem những cái bên trong ra mà phân phát, bằng cách khoan dung, quảng đại, không xét đoán tha nhân … Khi biến mình thành nô lệ hay là người làm thuê thì ta vừa bỏ quên quyền lợi của mình vừa xao lãng nghĩa vụ của mình. Một trong những nghĩa vụ của người con trong gia đình là phải làm rạng rỡ gia phong. Đây chính là việc làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Là con cái trong nhà, chúng ta còn có nghĩa vụ yêu thương, đùm bọc anh chị em của mình.

Chuyện giữa ta với Hội Thánh, với xã hội, với quê hương, đất nước : Xin nhiều qua, cái gì cũng xin thì ta đang có lỗi với Đấng thiết lập Hội Thánh, với tiên tổ, những vị đã có công dựng xây quê hương, đất nước.

Tội thứ nhất : Cái gì cũng xin thì ta vô tình làm biến dạng những vị điều hành, lãnh đạo Hội Thánh, lãnh đạo quê huơng đất nước thành những ông chủ chứ không còn là đầy tớ của đoàn chiên, của nhân dân. Xin nhiều quá thì chúng ta rất có thể làm cho những người vốn là đầy tớ nhân dân trở thành độc đoán, độc quyền và có thể thành độc tài, độc ác vì lợi, vì danh. Xin nhiều quá thì chúng ta có thể vô tình biến những mục tử nhân lành phải sẵn sàng hiến dâng mạng sống vì đoàn chiên thành những kẻ chăn thuê, chỉ biết lấy sữa, xén lông các con chiên béo mập mà bỏ rơi các con chiên bệnh hoạn tật nguyền. Chắc chắn một xã hội, một đất nước với những vị lãnh đạo, điều hành đất nước như thế thì sẽ làm cho quốc gia trì trệ, chậm phát triển và dĩ nhiên đời sống người dân sẽ lầm than, khổ cực. Tuơng tự như thế, một Hội Thánh với những mục tử giả hiệu thì đoàn chiên sẽ tan tác.

Tội thứ hai : Cung cách hành xử kiểu cái gì cũng xin sẽ làm ta quên mất mình là một công dân, là một thành viên của xã hội này, đất nước này. Nếu cái gì cũng xin thì ta đã quên mất mình là một phần tử trong đoàn dân Chúa, đã được Đức Kitô thông chia các chức vụ ngôn sứ, tư tế và vương giả của Người.

Là thành viên của một xã hội, là công dân của một quốc gia, là phần tử của Hội Thánh, chúng ta vừa có những quyền lợi căn bản hợp pháp vừa có những nghĩa vụ chính đáng, tất yếu của một công dân, của một người con cái Chúa trong lòng Hội Thánh mẹ. Đã là quyền lợi chính đáng, đã là nghĩa vụ phải đạo thì ta phải hành xử cách tự do và tự nguyện. Và do đó không thể có chuyện xin xỏ hay xin – cho ở đây. Nhiều quốc gia trên thế giới và ngay cả đất nước chúng ta cũng đang nỗ lực hoàn thiện cơ cấu pháp luật để bãi bỏ dần cơ chế xin – cho.

Ngày nay nước nhà ta đang chuyển dần các thủ tục xin xỏ qua hình thức đăng ký. Đây là một nét tiến bộ, nhưng cũng là một quy luật tất yếu để người dân phát huy vai trò làm chủ, để không chỉ minh nhiên hành xử các quyền lợi căn bản mà còn tích cực thực thi các nghĩa vụ chính đáng của mình. Bộ Giáo Luật 1983 đã quy định rõ những quyền lợi và nghĩa vụ của người tín hữu, của tín hữu hàng giáo dân từ điều 208 đến 231. Chẳng hạn điều 213 : “ Các tín hữu có quyền được lãnh nhận từ các Chủ chăn sự hỗ trợ nhờ các của cải thiêng liêng của Hội Thánh, nhất là Lời Chúa và các Bí tích” hoặc điều 222.2 “ Các tín hữu có bổn phận cổ võ công bằng xã hội cũng như dùng tài sản riêng tư để giúp đỡ những người nghèo, theo lệnh truyền của Thiên Chúa”…

Để kết thúc những chia sẽ, xin khẳng định rằng không thể không xin. Với Thiên Chúa, khi ta cầu xin là ta nhìn nhận mọi sự đều là hồng ân. Mọi sự ta đang có và nhất là sự “ta là” tức là sự hiện hữu của ta cũng như mọi vật mọi loài đều do bởi quyền năng và tình thương của Chúa. Ngay cả đối với những tập thể xã hội hay với Hội thánh thì chuyện xin vẫn còn đó. Điều này nói lên sự cần thiết, sự phụ thuộc của ta đối với Hội Thánh, đối với xã hội, vì không ai là một hòn đảo. Tuy nhiên, không thể và không được phép hành xử kiểu cái gì cũng xin. Cần phải thận trọng. Thậm chí ngay cả việc thánh thiêng như “ xin Chúa chúc lành cho anh chị em”, dù tự nó là tốt đẹp, nhưng diều làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn đó là hãy biến con người của mình, cuộc đời của mình thành mối chúc lành cho tha nhân như xưa Giavê hứa với Abraham : “Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành…Nhờ người, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc” ( St 12,2-3 ).



(Thuận Hiếu – Ban Mê Thuột)

LM Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

 

Mục lục

 

Một Chuyến Đi

 

(Những tiểu khúc của một hành trình – Tết Đinh Hợi 2007)

Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói.

Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu (Mt. 10:16)

Khúc Tự Sự:

Tôi thu xếp công việc Giáo Xứ, rồi lên đường về Việt Nam ăn cái tết quê hương sau 15 năm đón xuân xứ người. Trong tay cầm một số tiền kha khá do cộng đồng Công Giáo Việt Nam tại Augusta, Georgia, thu được trong việc tổ chức tết… sớm, và với sự gúp đỡ của một số bạn bè, làm hành trang cho công việc “lì xì" cho trẻ mồ côi, bụi đời.

Trước khi về VN tôi còn “can đảm” lên các website tìm bạn bốn phương tiếng Việt để đăng một profile kêu gọi những người có lòng từ thiện hãy cùng tham gia phát quà tết (dĩ nhiên tôi không nói tôi là một Linh Mục.) Bạn có tin không, tôi nhận tổng cộng được hơn 500 email (hầu hết là của con gái?!) muốn tham gia cùng với rất nhiều câu hỏi liên quan đến những công việc. Bí quá tôi đành phải email trả lời chung mọi người là tôi sẽ gặp tất cả ở công viên bên hông nhà thờ Đức Bà để chia xẻ và thông báo các ngày giờ và địa điểm xuất phát. Có khoảng gần 300 bạn đến buổi gặp mặt – số còn lại gọi tới điện thoại của tôi - biến nó thành cái tổng đài bất đắc dĩ. Sau khi nghe tôi trình bày là mình không đi đến thăm một trung tâm trẻ mồ côi nào cả mà mình sẽ lang thang hàng đêm trên các đường phố, tìm đến các nơi mà trẻ bụi đời ngủ, để sống và lì xì tết cho các em, thì ai cũng lo lắng về sự an toàn của mọi người. Tôi tóm gọn lại là tôi không thể bảo đảm được sự an toàn của ai cả, vì chính tôi còn không biết tính mạng tôi sẽ ra sao thì làm sao dám bảo đảm cho ai. Duy chỉ có một điều tôi dám hứa đó là “bình dầu sẽ không vơi và hũ bột sẽ không cạn” (Sách các Vua 17:14) – có nghĩa là tiền lì xì sẽ không thiếu! Chỉ cần các bạn có một tấm lòng yêu thương và “liều” một chút. Bạn có tin được không, sau buổi gặp mặt đó chỉ đúng có một người gọi cho tôi. Vâng đó là một cô gái, một cô gái rất đẹp - đẹp đến độ khi cô ta gọi điện thoại cho tôi để đi cùng, tôi nhận ra cô ngay, vì tôi đã ấn tượng cái tính cách khác thường và vẻ đẹp rất sắc của cô trong cả mấy trăm người trong khoảng 30 phút họp mặt. Nhưng xin bạn hãy chờ… chờ một tí… Tôi hứa sẽ kể cho bạn nghe về cô gái đẹp này!

Lần này tôi về Việt Nam khác với bao lần truớc, tôi sẽ không chỉ đơn thuần sống kiếp không nhà dưới các chân cầu, hay lang thang bán vé số, hay lượm rác với các trẻ mồ côi bụi đời mà tôi đã có lần chia xẻ với mọi người. Lần này, khác với mọi lần trước, tôi còn có người bạn đồng hành là các phong bì đỏ của mùa xuân nữa. Tôi sẽ lì xì cho mỗi em tôi gặp một phong bì 150,000 (một trăm năm mươi ngàn tiền Việt) - Khoảng 10 mỹ kim. Tôi có gần 5 ngàn dollars để lì xì, có nghĩa là tôi có trong tay gần 500 phong bì để sống một cái tết “lề đường” với trẻ mồ côi và bụi đời. Gia đình và bạn bè tôi hỏi: “Tết ngày Thông ăn tết ở đâu?” Tôi cúi mặt trả lời “Dạ ăn tết trên đường phố với trẻ bụi đời.”

Bao nhiêu người, ngay cả những người thân yêu và giáo dân của tôi, khi nghe tôi kể về dự tính cho cái tết Đinh Hợi này, đã chất vấn tôi với bao nhiêu câu hỏi: “Cha “điên” hay sao mà cha lại làm như vậy? Cha không sợ nguy hiểm sao? Lỡ tụi nó đánh cha thì sao? Ai sẽ đi chung và bảo vệ cha?” Cho đến những lời gần như là xin tôi hãy đừng đi nữa: “Cha ơi, tụi con cần cha, biết bao nhiêu người cần cha, sao cha lại đi như vậy? Cha ơi, cha để lúc khác hãy đi, bây giờ cha không được khoẻ đó! Hoãn lại chuyến đi nghe cha.” Cho tới những câu đánh động tâm hồn của tôi, bắt tôi phải suy nghĩ thật nhiều như: “Cha ơi, ông bà cố có một mình cha đó. Lỡ có chuyện gì sảy ra với cha, ai sẽ lo cho ông bà cố? Cha có biết là những nơi cha đi nguy hiểm lắm không? Các trẻ bụi đời đó như những con thú hoang đang đói và nó sẽ vồ lấy mà ăn tất cả những gì trước mặt nó, mà cha lại mang theo tiền để lì xì.”

Vâng, tôi đã suy nghĩ nhiều, nhiều lắm. Và để trả lời cho tất cả các câu trên, tôi xin mượn lời Chúa trong Phúc Âm Thánh Matthêu: “Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói. Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu (Mt. 10:16) Tôi đã cảm nhận được Chúa đã sai tôi đi. Tôi cám ơn những lo lắng, tình yêu thương, lời cầu nguyện và sự giúp đỡ của mọi người. Tôi hứa sẽ cố gắng “khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như con chim bồ câu!”

“Tết, tết, tết, tết đến rồi! Tết, tết, tết, tết đến rồi! Tết đến trong tim mọi người!” Trên đường từ sân bay Tân Sơn Nhất về khách sạn vào nửa đêm 20 tết và tôi vẫn nghe bài nhạc tết này phát ra từ bao nhiêu quán cà fê và từ những chiếc loa trong các ngôi nhà. Thật vậy không khí tết đã “cao ngất trời mây” tại Sài Gòn. Năm nay người Việt trong nước ăn tết lớn. Họ gọi đó là cái tết “hội nhập”, cái tết mừng Việt Nam gia nhập WTO! Nhưng WTO thì có ảnh hưởng gì đến bọn trẻ mồ côi bụi đời, chúng vẫn đói khát và vẫn không nhà.

Sau khi nhận phòng khách sạn, rồi cùng với mấy người bạn ghé qua chợ ăn đêm Bến Thành kiếm cái gì bỏ bụng, tôi lại một mình trở về khách sạn, giở cuốn “các Giờ Kinh Phụng Vụ” ra đọc kinh sáng thứ 4 tuần 1. Tự nhiên bỗng giật mình khi đọc đến bài trích sách Tôbia 4:15a, 16a, 18a, 19: “Điều gì con không thích, thì cũng đừng làm cho ai cả. Hãy chia cơm sẻ áo cho người đói rách. Biết ai khôn ngoan thì tìm đến mà bàn hỏi. Hãy chúc tụng Đức Chúa là Thiên Chúa mọi lúc; hãy xin Người dạy con cho biết theo nẻo chính đường ngay và giúp con thành công trong mọi đường đi nước bước cũng như mọi toan tính của con.” Tôi gần như bị thôi miên khi đọc đến đó. Thiên Chúa hay thiệt! Ngài biết những dự tính của tôi. Thế là như được Chúa Thánh Thần Thúc đẩy, tôi rời khách sạn lúc hai giờ sáng và vội vã lên đường chia xẻ những tấm áo mình đang có và niềm vui của sự cho đi theo gương mẹ Maria lên đường chia xẻ niềm vui với bà Elizabeth sau khi được Sứ Thần truyền tin (Luca 1:39-45)

Mời bạn hãy cùng tôi lên đường!

I. Cái Đêm Ấy Thế Mà… Bị Đánh:

(Bờ Kè Cầu Kinh Tẻ)

2 giờ sáng, Sài Gòn giờ đã chìm sâu trong giấc ngủ say. Đường phố thưa thớt người qua lại, chỉ còn lác đác vài chiếc xe ôm, và loanh quanh gần đó những “bóng hồng” đang đợi chờ khách ăn sương. Tôi giơ tay vẫy một chiếc xe ôm, tưởng bắt được khách “ăn khuya”, ào, ào ào, 4 chiếc Honda trờ tới. Ba chiếc chở ba cô gái, phấn son loè loẹt, đã quá mệt mỏi vì dạn dày “sương đêm” để cho tôi “chọn hàng”, và một chiếc không chở ai - chắc là để chở tôi.

- Không, tôi chỉ muốn một chiếc Honda ôm. Hôm nay tôi mệt mỏi lắm, không có sức làm gì đâu. (Chỉ có nói như thế thì mới không bị chèo kéo.)

- (Văng tục... ) tưởng là có mối - Tiếng một cô gái rít lên giữa đêm trường tĩnh mịch, rồi sau đó là tiếng rú của cả bốn chiếc xe lao vào bóng đêm. Chỉ còn lại mình tôiJ

Biết là không thể đón Honda ôm ở góc phố tối tăm này, tôi đi bộ ra chỗ có ánh đèn đường chiếu sáng và ung dung trèo lên một chiếc Honda trực chỉ bờ kè cầu Kênh Tẻ (nối liền giữa quận 1 và quận 4). Sau hai vòng chạy vòng quanh bờ kè quan sát tình hình, tôi nói anh lái xe ôm cho tôi xuống một chỗ trống, tối om, nhưng rất hôi thối sát bên góc của bờ kè. Móc ba mươi ngàn ra đưa cho anh, tôi nhận được một ánh mắt vừa tò mò vừa nghi ngờ từ người lái xe. Có thể anh đang suy nghĩ: “quái lạ, cái thằng này xuống đây để làm gì vào giữa đêm thanh vắng như vầy?” Hay có khi anh còn đang tự cám ơn là đã không bị tôi cướp xe của anh cũng không chừng.

Tôi ngồi vào một góc tối quan sát chung quanh. Trời Sài Gòn se se lạnh, dưới ánh đèn heo hắt xuyên qua các kẽ hở tôi thấy có một số người cuộn mình đang ngủ say. Lấy lại bình tĩnh, làm dấu và đọc một Kinh để xin ơn can đảm và khôn ngoan, rút túi ra khoảng hơn 10 cái phong bì, tôi mon men tiến lại các “mục tiêu” của mình:

- Thằng nào đó? Tiếng một người đàn ông quát vang lên giữa đêm trường tĩnh mịch.

- Dạ cháu đây! Cháu là một người làm việc xã hội muốn đến đây để lì xì tết cho các chú và các em nhỏ thôi. Cháu không không có phải là dân ăn trộm đâu. Tôi nhắm mắt, run sợ, nói như không kịp thở để thanh minh cho chính mình! Khi mở mắt ra, tôi đã thấy mình bị bao vây bởi khoảng hơn 30 người, tay ai cũng cầm một cái cây, hay một cục đá, hay một con dao - mặt ai cũng hằn hằn sát khí, dù vẫn còn đang ngái ngủ.

- (Văng tục...) Có thiệt không hay là vô đây ăn trộm đó? Anh bạn trẻ đang đứng trước mặt tôi nói buâng quơ. Vừa nói anh vừa cười, nhưng lại không nhìn vào tôi mà lại nhìn những người chung quanh.
- Chắc không phải đâu. Chắc nó là người tốt thật đó. Một người khác chen vào. Tay nó đang cầm phong bì lì xì kìa. Như bị ngớ người từ nãy tới giờ, tôi trở về với cái… sợ sệt của thực tại, và nói nhanh.
- Thật mà, cháu không có phải ăn trộm đâu, cháu đi lì xì tết cho các anh chị và đặc biệt là các em nhỏ mà.
- Mở phong bì ra tao coi coi, có tiền thiệt không? Một giương mặt chắc cũng đã quá 40, tự nhiên xuất hiện trước mắt tôi và hét to. Tôi lấy một cái phong bì, mở ra cho họ xem rồi bóc ra trong đó có ba tờ giấy năm mươi ngàn tiền Việt Nam.

- (Văng tục...) có từng đó thì ai có ai không. Anh chàng lại có vẻ như thị uy.

- Tại em không biết ở đây có nhiều người như vậy, nên chỉ mang có khoảng 20 phong bì thôi, với lại mục đích là lì xì cho các trẻ mồ côi thôi…

- Còn các người già không con cháu như tui thì sao? Một ông lão xen vào không để cho tôi nói hết ý.

- Dạ thì các cụ không con cái cũng có, con hứa là sẽ có.

Cuộc đối thoại còn kéo dài nữa, nhưng sợ độc giả sẽ chán nên tôi xin cắt mẩu đối thoại ở chỗ này để đưa độc giả vào phần… hồi hộp của câu chuyện.

Tôi đặt “bàn toạ” vào cái khoảng trống đã được dành riêng cho tôi trong một vòng tròn khoảng trên 10 em vòng trong và cũng khoảng từng đó số người lớn ngồi ở vòng ngoài. Và bắt đầu bài “diễn văn nói dối” của mình đã được chuẩn bị từ trước và thuộc lòng cho lần ra quân lần này ở Việt Nam.

- Cũng như các em, anh Thông cũng đã từng đi bán vé số, đi lượm rác, và đi ăn xin trên các đường phố Sài Gòn như các em (Chuyện này có thật, không có dối. Độc giả có thể đọc lại những bài chia xẻ cũ. Tuy nhiên tôi chỉ sống với các em một thời gian, chứ không phải là… kẻ bụi đời chuyên nghiệp.) nhưng anh Thông đã không nản lòng, không làm điều gì sai, không ăn cắp ăn trộm cái gì của ai cả. Anh Thông đã cố gắng vươn lên trên số phận và giờ đây anh đã có công ăn việc làm ổn định và muốn về thăm các em cùng cảnh ngộ như anh hồi trước thôi…

- Dzậy “Chú” là Dziệt Kiều hả? Một em nhỏ với giọng miền nam rặt cắt ngang.

- Không chú (tôi đổi từ “anh” qua “chú” một cách trơn tru) mà là Dziệt Kiều cái gì. Chú là Dziệt Nam chính gốc luôn đó - Gốc bự à nghen. Tôi vừa pha trò vừa cố gắng che đậy cái tung tích Dziệt Kiều của mình.

- Tại tưởng Chú Dziệt Kiều nên hỏi thôi.

- Không, chú đã nói rồi, chú là Dziệt Nam 100% đó - Dziệt Nam thiệt à nghen, không phải Dziệt Gian đâu. Chú bây giờ có công việc cũng khá ổ định nên dùng một tháng lương để giúp các cháu thôi. Chú nói thiệt nghen, hồi nhỏ mà chú bố mẹ cho một bộ quần áo mới là chú vui lắm, vui hết sức luôn đó. Năm nay chú không có giờ đi mua quần áo nên các cháu thông cảm. Chú sẽ lì xì cho các cháu mua đồ tết. Tiếng vỗ tay vang dội cùng với tiếng reo hò của bọn trẻ làm cắt ngang bài “diễn văn” của tôi. Bọn trẻ nghe nói tới lì xì là nhao nhao lên, không cho tôi hết lời, thế là tôi đành phải phát lì xì cho chúng.

Trước khi bắt đầu phát lì xì tôi bắt chúng xếp hàng một, và từng em lên tới trước mặt chúc tết cho tôi. Làm như thế cũng là cách để tôi nhận diện và có thể phân biệt được những em nào đã được tôi lì xì. Em nào nhận xong thì đứng qua bên phải hay bên trái của tôi chứ không được trở lại hàng. Trong khi tai tôi nghe những lời chúc, mắt tôi thì phải “láo liên” nhìn cuối hàng xem có em nào ăn gian không. Bạn nghĩ là có hay không? Bạn đoán thử coiJ Có đó, có hai em vừa nhận phong bì xong, đã lợi dụng lúc tôi không để ý, chạy ngay ra cuối hàng. Làm cho tôi phải tạm ngưng công việc phát phong bì và nhắc nhở các em. Cuối cùng thì tôi cũng đã lì xì xong cho các bọn trẻ và những người già tự nhận là người… neo đơn. Tuy nhiên chính vì phải lì xì thêm cho các cụ mà tôi bị… cướp và đánh cho một trận nhừ tử.

Chuyện bắt đầu khi tôi lì xì xong cho các em và phải mở túi quần lấy thêm phong bì để biếu các cụ tự xưng là mình không có… con cháu. Thế là tôi bị lộ, lộ ra là mình còn có tiền cất trong cái quần có tới gần chục cái túi của tôi. Khi đang biếu tiền cho các cụ tôi đã nghe được tiếng của mấy người khác nói với nhau:

- (Văng tục... ) thằng này còn tiền. Mỗi túi nó móc ra có mấy cái phong bì.

- Mày coi kìa quần của nó có tới bao nhiêu túi. Một giọng khác chen vào.

Nói xong tôi thấy họ lặng lẽ đứng dậy bỏ đi ra ngoài. Xương sống tôi bắt đầu cảm thấy lạnh; tóc gáy dựng lên từ từ; tâm trí tôi dao động và lo lắng. Đang đưa phong bì cho các cụ già mà đầu óc tôi thì đang để đi đâu – Lo lắng và sợ hãi.

Sau khi đã trao quà cho các cụ, tôi nấn ná ngồi lại nói chuyện với các cụ và các em nhỏ, nhưng thực chất là để suy tính cách nào mình sẽ phải thoát ra chỗ này. Và những con đường nào có thể thoát thân. Sau ít phút nói chuyện tôi lấy cớ là các cụ và các em cần phải nghỉ, và tôi thì phải về vì mai còn phải lo công việc. Tôi nhờ một hai cụ dẫn tôi lên đường cái viện cớ là không biết chỗ nào có Honda ôm, nhưng thực chất là hy vọng có sự hiện diện của người lớn tôi sẽ không bị nhóm thanh niên man nữ kia cướp. Thế là tôi chào tạm biệt mọi người rồi hai cụ dẫn tôi lần mò trong bong đêm. Bỗng dưng

- Sao không lì xì cho tao hả thằng kia? Còn tiền không vậy? Tôi không trả lời gì hết và tiếp tục đi.

- (Văng tục... ) mày khinh người hả? Sao tao hỏi mà không trả lời?

- Hết tiền rồi anh ơi. Cho các em nhỏ và các cụ hết rồi…

Chưa dứt lời thì… rầm, rầm, rầm hai cái đá và một cái đấm vào hông. Tôi chỉ kịp lấy hai tay che mặt để bảo vệ, còn mặc cho họ đánh, nếu họ muốn. Vì biết có chạy cũng không thể thoát được. May thay, họ không đánh tôi nữa, mà một người bẻ hai tay tôi ra đằng sau, rồi một người lấy một mảnh vải (rất hôi) quấn vào đầu tôi. Họ lục lọi hết 7 cái túi quần của tôi (sau khi về khách sạn tôi đếm mới biết là có 7 túi) lấy hết các phong bì và trước khi bỏ đi có người lên tiếng dạy tôi:

- (Văng tục... ) lần sau đi lì xì thì phải công bằng nghe, lớn nhỏ gì cũng phải có đầy đủ đó.

- Cũng đừng có nói láo nữa. Hễ còn tiền thì nói – nói láo là tao đánh chết “mẹ” mày đó. Một tiếng nói khác chen vào.

- Mày đừng có nghĩ đi báo Công An nghe chưa. Giọng nói ồm ồm, nhưng rất chua chát của người đang bẻ tay tôi cất lên – cùng với lúc anh ta tăng thêm áp lực trên cánh tay của tôi đang bị bẻ làm cho tôi la lên vì đau. Anh ta lại gằn giọng nói tiếp.

- Mày nhớ chưa, không được báo Công An. Mày mà báo công an thì tao đốt nhà mày, nghe rõ chưa.
- Dạ rõ. Tôi vừa nói vừa than đau, nhưng vẫn tiếp tục nói. Tôi nói thật với các anh, chứ nếu tôi mà muốn báo công an, tôi đã không vào đây để lì xì cho mọi người một mình. Tôi biết có thể là tôi bị cướp, nhưng tôi không thể hình dung là các anh sẽ đánh tôi.

- (Văng tục... ) mày dạy đời tao hả. Anh ta thả cánh tay bị bẻ của tôi ra rồi quát. Hai phút nữa tự gỡ khăn bịt mặt ra rồi đi ra khỏi đây, nghe chưa.

Sau khi anh ta dứt lời, tôi nghe tiếng chân người chạy mỗi lúc một xa. Sau khi không còn nghe gì nữa tôi tự cởi cái “áo” thối ơi là thối, quấn đầu và mặt tôi, hít thở một hơi dài và bình tĩnh, (vâng không biết tại sao lúc đó tôi rất bình tĩnh, có lẽ là đã hết tiền) và ung dung bước ra khỏi bờ kè, trèo lên trên đường chính và bắt taxi (chứ không đi Honda ôm nữa, vì không có chiếc nào) trở về trước chợ Bến Thành cho dù khách sạn của tôi ở cách đó gần cả cây số.

Đã gần 5 giơ sáng, Sài Gòn chuyển mình thức giấc, tôi lê từng bước mệt nhọc, lững thững trở về lại căn phòng của mình – Cái run sợ vẫn còn đó, cái đau đớn thân xác đang tăng dần, nhưng niềm vui và hạnh phúc thì dâng trào!

Chút Suy Tư:

Vâng, tôi vẫn đã từng dự đoán là tôi có thể sẽ bị cướp, nhưng sẽ không bị đánh vì tôi lập luận: “Mình có làm gì đâu mà bị đánh, mình đến giúp họ mà.” Và tôi tin rằng tôi không phải là người duy nhất có những lập luận đó mà chắc qúy độc giả cũng có người đã lập luận như tôi. Nhưng sau khi bị đánh tôi về suy nghĩ lại và nhận ra rằng dù cho tôi đã sống và làm việc với trẻ mồ côi và bụi đời gần 10 năm nay, tôi vẫn còn… non trong cách suy nghĩ của họ.

Dĩ nhiên, họ sẽ đánh tôi. Và nếu tôi là họ tôi cũng sẽ đánh khi cướp người đến giúp tôi. Nhưng mà đánh cho… sợ chứ không phải đánh cho… chết. Họ đánh cho tôi sợ để tôi không báo công an. Vì chỗ họ sống là trái luật, nên nếu họ chỉ cướp tôi, chắc chắn tôi phải đi báo công an, và một khi tôi đã báo chắc chắn công an sẽ phải tới “rờ gáy" họ thôi. Thế là họ lại phải trở thành những người vô gia cư khi bị cưỡng ức rời các căn nhà bằng giấy và lá để đi tìm chỗ tạm trú khác.

Đúng là: “Sông sâu còn có chỗ dò – Nào ai lấy thước mà đo long người.” Ôi Lạy Chúa, con không dám đo lòng của ai, vì chính con đôi khi còn chưa đo được lòng mình. Xin cho con đừng phán đoán ai, nhưng hãy là cánh tay vươn dài của Chúa. “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, … để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem tình thương đến chốn u sầu…” (Kinh Hoà Bình của Thánh Phanxicô)

www.hayyeuthuongnhau.org


 

Còn tiếp những những “đoản khúc” khác của một chuyến đi như:

Người Phu Quyét Rác (Câu chuyện người quét rác đêm Giao Thừa)

Ngã Ba… Sung Sướng (Bãi Rác và Nghĩa Trang Đông Thạnh – Hóc Môn)

Cô Gái Đến Từ… Internet (Chuyên gia câu… Việt Kiều)

Tưởng Chừng Sẽ… Chết (Bãi Rác Sâm Sua – Trà Vinh)

Trở lại… Bình Hưng Hoà (Nghĩa Trang Bình Hưng Hòa – Quận Tân Phú)

Đứa Bé Đội Mồ… “Sống Dậy” (Câu chuyện đứa bé được cứu ra từ cỗ quan tài)

 

LM Martino Nguyễn Bá Thông

Tài liệu tĩnh tâm linh mục Giáo phận Phú Cường 2007 ( tiếp theo)

 

LỜI THỨ HAI

“HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở TRÊN THIÊN ĐÀNG VỚI TA”

(LC 23,43)

 

GM. Giuse Vũ Duy Thống

 

I. LỜI GIEO HY VỌNG

 

Từ lời thỉnh cầu của ông trộm lành…

Đến lời đáp của Chúa Giêsu…

Để sáng lên chân dung Đấng Cứu Thế

 

 II. LINH MỤC VÀ NIỀM HY VỌNG

 Thực chất: LM phải là tác nhân của niềm hy vọng.

Thực tế: LM nhiều khi chưa hết mình với niềm hy vọng.

Thực hành: LM làm gì cho niềm hy vọng vươn lên.

 

***

 

 LỜI THỨ HAI

“HÔM NAY ANH SẼ ĐƯỢC Ở TRÊN THIÊN ĐÀNG VỚI TA”

(LC 23,43)

 

 

Lời oai phong nhất mà Đấng chịu đóng đinh có thể tuyên bố, chính là lời Ngài dành cho ông trộm lành. Khác với những tử tội bình thường, khi bị hành quyết không ngớt nguyền rủa ngày sinh, không ngớt than cho số phận và không thiếu những lời nhục mạ cuộc đời. Ơ đây, Vị tử tội của chúng ta, Đấng Cứu Thế, lại có lời đặc biệt, lời oai phong, là bởi vì chính trong khung cảnh của cuộc hành quyết, Ngài đã nói đến sự sống, chính khi bước vào nẻo đường tưởng là đường cùng, Ngài lại mở tung một cánh cửa, không chỉ dành riêng cho Ngài, mà cùng với Ngài còn có những kẻ tháp tùng. Và cánh cửa ấy một khi đã mở thì sẽ không đóng lại nữa, mãi mãi mở ra cho những ai bước theo con đường của Ngài. Đây là lời quyền uy nhất bởi vì những lời khác phán ra từ Thánh giá hoặc là kinh nguyện, hoặc là tâm sự, còn chính lời này lại là một lời có cân lường, có sức mạnh. Đây cũng là lời đối thoại duy nhất trong bảy lời Chúa phán ra từ Thánh giá, gồm có lời thỉnh cầu của ông trộm lành và lời đáp trả của Chúa Giêsu đã làm nên lời hy vọng Đấng Cứu Thế đang gởi cho tất cả những ai đang chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài. Chính vì vậy xin được rảo qua, trước hết là lời của ông trộm lành, sau đó là lời đáp của Chúa Giêsu và truy tìm những nét đặc trưng trong chân dung của Đấng Cứu Thế, Đấng gieo niềm hy vọng cho mọi cảnh đời, và cuối cùng dõi sáng tù lời thứ hai trên cuộc sống Linh mục hôm nay trong niềm hy vọng.

 

 I. LỜI GIEO HY VỌNG

 

1. Từ lời của ông trộm lành….

 

Chữ “trộm lành” trong ngôn ngữ của nhà đạo trong ngôn ngữ nhà đạo đã quá quen. Đối với quý cha cũng vậy, đối với phần đông tín hữu Việt Nam cũng thế, và có lẽ là trong ngôn ngữ của Tây phương cũng vậy thôi. Nhưng cách riêng, nguyên chữ này, đối với anh chị em tân tòng xem ra cũng cần được giải thích. Bản thân tôi có lần dạy giáo lý và rửa tội cho một tay đầu trộm đuôi cướp, từng là thủ lãnh một nhóm mặt rô ở ngã tư Trung Chánh, biệt danh là Tám Đầu Trọc, chuyên đâm thuê chém mướn. Không biết nẻo đường làm sao quen với một cô Công giáo ở Giáo xứ tôi phụ trách hồi đó, nên đành phải tháp tùng anh trong những bước đầu của đức tin. Khi dạy giáo lý cho anh khởi đi từ tình huống cụ thể cuộc đời, tôi cũng phải lấy hình ảnh của ông trộm lành này ra để khuyến dụ, và anh cũng rất thích thú khi biết rằng mình có một ông bổn mạng cùng nghề. Anh thấy rằng rốt cuộc thì đầu trộm đuôi cướp như anh cũng không bị loại khỏi Thiên đàng, miễn là phải có tấm lòng sám hối chân thành tìm về đường ngay nẻo chính, và nhất là sống niềm hy vọng cậy trông vào Đấng Cứu Thế. Anh vào đạo lập gia đình sinh được một đứa con. Khi chúng tôi bỏ đó một năm. Trở lại thì anh đã bị đâm chết rồi. Không biết anh có được gặp ông trộm lành đồng nghiệp?

 

Vâng chữ trộm lành ở đây có lẽ gợi lên cho chúng ta rất nhiều ẩn ý. Nhưng sở dĩ gọi là trộm lành bởi vì có ông trộm dữ ở bên cạnh. Tất cả đã tạo nên một hình ảnh đối chứng rất nổi bật về ý nghĩa, nhất là ý nghĩa về cứu độ. Thật ra nếu đọc kỹ đoạn Tin Mừng này, ta thấy giữa ông trộm dữ và ông trộm lành đều có những hoàn cảnh giống nhau và đều có những ngôn từ giống nhau. Tuy nhiên nẻo đường hai ông bước vào lại là những bước đi khác nhau mang tính quyết định. Ong trộm dữ sở dĩ gọi là dữ là vì ông đã sa lầy vào vết lăn của quần chúng ở dưới chân Thánh giá hôm đó. Đâu có mắc mớ  gì đến chuyện của Chúa Giêsu, thế mà ông cũng xin vào ăn có, cũng mạ lị, cũng nhục mạ Ngài. Còn ông trộm lành sở dĩ gọi là lành có lẽ vì ông biết nhìn thẳng vào lương tâm và thân phận của mình lúc đó để rồi có những lời trông cậy. Lời của ông trộm dữ là: Nếu ông thực là Đấng Kitô thì hãy cứu chính ông và cứu chúng tôi nữa. Rõ ràng là một lời phảng phất chút gì đó gọi là bám víu, nhưng không thể gọi là một lời cậy trông, bởi vì nó có chữ “nếu” là chữ thách thức. Và chính với chữ thách thức ấy ngay cả về phương diện văn phạm lẫn phương diện ngữ điệu đã đẩy ông ta về phía đối nghịch của Tin Mừng yêu thương. Trong khi lời của ông trộm lành, xét về phương diện văn phạm cũng đầy đủ cả những yếu tố đó, nhưng ngữ điệu lại là một lời van xin, một lời thỉnh cầu, một lời mang lẽ cậy trông: Lạy ông Giêsu, khi nào về trong nước của ông, xin nhớ đến tôi cùng. Trước khi một linh mục về trấn nhậm nhiệm sở mới, các linh mục bạn cũng thường nói đùa: Khi nào về nước của ngài xin nhớ đến anh em cùng, ý là nay mai trên đường đi ngang, nếu như cánh cửa nhà xứ rộng mở, anh em sẽ có dịp ghé vào đánh chén. Đại khái như thế. Đây là một lời đã trở thành cửa miệng của hàng giáo sĩ và đã trở thành một lời mỗi người có thể vận dụng cách này cách khác ít ra với ý hướng ngay lành. Lạy ông Giêsu, khi nào về trong nước của ngài, xin nhớ đến tôi cùng.

 

 Lạy ông Giêsu. Lời của ông trộm lành ở đây là một lời đặc biệt nói lên sự tin cậy của mình. Giêsu trong danh xưng có nghĩa là Giavê Cứu Độ, và bằng lời kêu xin này, chỉ với danh thánh này thôi cũng đủ để cho ông ta được đón nhận vào trong tấm lòng của Đấng Cứu Thế. Với lời của ông trộm dữ, Chúa Giêsu không trả lời. Máu chảy về tim, không phải vì Ngài giận cho bằng Ngài thấy một tấm lòng chai đá. Chết đến nơi rồi mà vẫn không biết suy ra đường ngay nẻo chính. Cà cuống chết đến đít vẫn còn cay. Trong khi với lời của ông trộm lành, chỉ với danh xưng Giêsu – Giavê Cứu Độ, Chúa Giêsu liền đáp lời.

 

Khi nào về trong nước của Ngài. Rõ ràng là với lời cầu xin ngắn này, người trộm lành đã vừa thú nhận vừa tuyên xưng. Ong thú nhận thân phận tội lỗi của mình bằng cách gạt đi lời của tên trộm dữ: phần chúng ta, chúng ta chịu như thế này là xứng rồi, còn ông Giêsu có làm chi nên tội, đừng có hùa theo người khác, đừng có dựa trên dư luận quần chúng để mà đánh giá, nhất là để mà mạ lị. Trong lời thú nhận thân phận tội lỗi của mình, nhất là chính lúc mình chẳng còn làm gì được nữa, tay thì đã bị trói, chân thì đã bị đóng đinh, chỉ còn mỗi cái miệng có thể mở ra cùng với trái tim thì ông đã vận dụng để tuyên xưng rất chân thành vào Đấng Cứu Thế. Rõ ràng ông này cũng là một ông rất đặc biệt, có lẽ đạo tặc bẩm sinh nhưng vẫn thông minh đột xuất để rồi mở miệng nói ra chỉ có một lời ngắn mà lại được Đấng Cứu Thế đón nhận một cách rộng mở. Là lời của trái tim đến với trái tim, lời của lòng cận kề bên lòng và chính vì lẽ đó, anh ta đã được Giêsu đáp lời.

 

Và lời thỉnh cầu của anh chỉ là một động từ, động từ “nhớ”, xin nhớ đến tôi cùng. Trong lịch sử cứu độ, “nhớ” là một động từ rất đặc biệt. Nhớ đối với Thiên Chúa không phải chỉ là bằng ký ưc, bằng hoài niệm mà luôn luôn là bằng cánh tay hùng mạnh, bằng chính hành động can thiệp của mình. Luôn luôn dân Chúa khi kêu cầu danh thánh là xin Ngài nhớ đến những hành vi can thiệp ở trong lịch sử cứu độ: Ngài đã tạo dựng, Ngài đã giải thoát dân. Những kiểu nói “Nhớ đến chúng tôi là những kẻ thấp hèn, là dân riêng của Ngài” đều gợi lên mối quan hệ đặc biệt, một đàng là Thiên Chúa, một đàng khác là Đấng Cứu Độ đối với dân riêng được Ngài tuyển chọn. Nếu như có một động từ “quên” như bài 1 chúng ta đã chia sẻ là quên đi lỗi lầm của dân Chúa, và nếu như có một động từ “nhớ” để mà chia ở trong đời thì chính là động từ Thiên Chúa can thiệp là động từ mang nhiều màu sắc nhất của Mầu nhiệm Cứu Độ, của Mầu nhiệm Giải Thoát. Chính vì vậy mà Đức Giêsu đã nhớ đến ông trộm lành.

 

 2. Đến lời đáp của Chúa Giêsu….

 

Lời đáp của Chúa rất ngắn nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa: Hôm nay ngươi sẽ được ở trên Thiên đàng với ta.

 

Chữ hôm nay trong Tin Mừng của Luca là một chữ đậm đà ý nghĩa, đậm đà sự can thiệp của Thiên Chúa, và bao giờ cũng là một chữ mở ra những thực tại mới. Chỉ xin đan cử vào mùa Giáng sinh, khi Thiên sứ hiện ra với các mục đồng, người nói: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta. Với chữ “hôm nay” ấy cả niềm mong chờ của dân Chúa đã trở thành hiện thực và với chữ “hôm nay” ấy, ngay đám dân đen như các mục đồng cũng cảm nhận được niềm vui giải thoát, để rồi chính niềm vui của các ông hòa với niềm vui cũa Thiên sứ làm thành Bài Trường Ca Giáng Sinh. Rồi một chuyện khác, có hai chữ hôm nay,  cũng trong Phúc Am Luca, khi Chúa Giêsu đi ngang Giêrikhô gặp ông lùn Giakêu đu tòng teng trên cây sung. Ngài bảo ông Giakêu xuống mau. Hôm nay Tôi muốn cư ngụ trong nhà của ông, và Ngài đến với ông bất kể mọi lời xầm xì bàn tán, bất kể mọi lời ì xèo nặng nhẹ, bông gió cạnh khóe cách này cách khác. Cuối bữa ăn ở nhà ông Giakêu, Ngài lại nói: Hôm nay nhà này được ơn cứu độ. Rõ ràng là với chữ hôm nay như thế đã mở ra một nhãn giới mới, dẫn đưa người lắng nghe vào trong nẻo đường cứu độ,

 

Chữ hôm nay chúng ta đang gặp ở đây là chữ hôm nay cuối cùng Chúa Giêsu nói trong đời sống trần thế của Ngài: Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên đàng với ta. Một chữ hôm nay mang màu hiện tại. Một chữ hôm nay ngàn năm một thuở. Một chữ hôm nay giống như trong một ca khúc của tác giả Phanxicô, chắc là các cha cũng đã hát hoặc nghe giáo dân của mình hát mỗi lần lễ An táng: Nhắm mắt lại rồi là thấy tương lai. Chính khi ông nhắm mắt lại rồi là lúc ông bước vào trong cõi sống. Cõi sống ấy gọi là cõi sống tương lai. Nhưng tương lai ấy không phải ở xa, mà đã gieo mầm ngay trong hiện tại. Chữ hôm nay ở đây là chữ hôm nay của thì tương lai và thì tương lai ấy cũng có thể gọi là hôm nay của muôn đời, bời vì Chúa Giêsu nói với động từ ở thì tương lai: Hôm nay anh sẽ… Hôm nay mà lại sẽ, sẽ mà vẫn cứ là hôm nay. Đấng Cứu Thế mở ra cho anh một cánh cửa làm cho lời anh cầu khẩn hôm nay lập tức trở thành hiện thực.

 

Rồi Đấng Cứu Thế hứa với anh về nước Thiên đàng. Một tình trạng mà anh sẽ được dẫn vào. Trong bài suy niệm của các tác giả cổ thời, người ta đã bảo anh chàng ăn trộm này đúng là chuyên nghiệp, bởi vì cả đời ăn trộm đến lúc chết vẫn không quên hành nghề. Anh ta đã đánh cắp được cả Thiên đàng trước mắt của Đấng Cứu Thế. Và bất kể, bất chấp lời thú tội muộn màng của mình, bất chấp cảnh éo le đang bị đóng đinh, và bất chấp cửa tử đang rình chờ. Đấng Cứu Thế hứa với anh một câu xanh rờn: Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên đàng với ta. Chữ Thiên đàng ở đây là một chữ mang nhiều gợi ý. Có lẽ trong ngôn ngữ Việt Nam, đây chỉ là kiểu nói bóng bẩy để đối chiếu với hình ảnh Địa đàng của thuở hồng hoang khi Thiên Chúa sáng tạo vũ hoàn và con người. Thế nhưng theo nguyên ngữ Batư, chữ Thiên đàng có nghĩa là khu vườn. Và khu vườn ấy mặc sức cho người ta tưởng tượng với những kỳ hoa dị thảo, với những khúc ca hân hoan, với những gì được xem là hạnh phúc nhất: khu vườn hạnh phúc. Người Trung Hoa có câu ngạn ngữ: Nếu anh muốn hạnh phúc trong một tuần thì hãy cưới vợ, nếu anh muốn hạnh phúc trong một tháng thì hãy mỗ một con heo, và nếu anh muốn hạnh phúc lâu dài thì hãy xây một khu vườn. Ơ đây ta cũng bắt gặp một nét tương tự, xét về phương diện văn hóa, Thiên đàng là một nơi hạnh phúc, một thứ hạnh phúc dài lâu, một khu vườn không phải chỉ có những bông hoa, và đó người ta mãi mê đuổi hoa bắt bướm mà chính là một nơi hay một tình trạng người ta được gắn bó với Thiên Chúa. bỡi Thiên Chúa chính là hạnh phúc tràn đầy.

 

Chữ với Ta cũng là một chữ mang ý nghĩa rất đặc biệt cho niềm hy vọng hôm nay. Nước Thiên Chúa không phải ở đâu đẩu đâu đâu thật xa, ở một không gian xanh tít thẳm mù. Nước Thiên Chúa cũng không phải là ở bên kia thế giới. Mà Nước Thiên Chúa đã khởi sự ngay từ cuộc sống hôm nay, ngay từ những đau khổ này, ngay từ những giới hạn, ngay từ những bất hạnh này giống như ông trộm lành đang bị trói tay, đang bị đinh đóng. Anh ta đã hiểu ra tương lai bắt đầu từ hôm nay. Nước Thiên Chúa đã gieo mầm trong những nỗi khổ, giới hạn anh ta phải chịu. Vì Thiên đàng ấy là sự hiện diện của chính Thiên Chúa. “Với Ta” , vào trong Thiên đàng với Chúa Giêsu còn gì là hạnh phúc lớn lao hơn. Người ta bảo Chúa Giêsu đã chết nghèo, nghèo đến nỗi chết ở trần, nghèo đến nỗi đôi tay quyền uy bị trói chặt dưới vòng tay pháp luật phàm trần, và nghèo đến nỗi khi chính Đấng Giải thoát lại chỉ có một tên ăn trộm tháp tùng vào Thiên đàng. Cho dầu ông ăn trộm có được rửa tội đi nữa, được gọi là ông trộm lành những vẫn cứ là ăn trộm, và cuối cùng thì được đưa vào hiện diện cùng Đấng Cứu Thế, nơi quê hương vĩnh phúc.

 

Điều lạ lùng là anh ta được giải thoát không phải để được đưa vào gác xếp của Thiên đàng mà oai phong giống như lời oai phong của Đấng Cứu Thế đã hứa với anh, được tháp tùng chính Ngài vào trên quê hương hằng sống. Lời của Đấng Cứu Thế phán ra với ông dù là trong một hoàn cảnh quẩn bách như lúc bị đóng đinh đã trở thành một lời oai phong như lời của một ông vua trong Nước của Thiên Chúa: Hôm nay ông sẽ được ở trên Thiên đàng với ta. Có lẽ ông trộm lành là ông hạnh phúc hơn cả, bởi vì bỗng dưng tay trắng mà lại vớ được Thiên đàng, buồn ngủ gặp chiếu manh, ăn mày được xôi gấc. Còn gì sướng bằng! Nhiều linh mục vẫn nói vui, coi ông trộm lành là bổn mạng của những kẻ ăn trộm.

 

Trong một chuyến bay từ Thành phố Hồ chí Minh ra Hà Nội, lật trên tạp chí của hàng không Việt Nam cách đây mấy tháng, tôi gặp thấy một mẫu truyện cũng ám hợp với trường hợp của anh trộm lành. Đó là một truyện mang tính tự sự có tựa đề là “Từ phá rừng đến gác rừng”. Chuyện kể về một lâm tặc chuyên nghiệp, chuyên đốn gỗ bán và cũng sẵn sàng đốn ngã bất cứ nhân viên công lực nào. Trong một lần bị bắt, anh nài nỉ và xin ân xá. Có lẽ thời đó chưa có luật lệ rõ ràng như hiện nay và có lẽ anh ta cũng chưa làm điều gì xâm hại đến tính mạng của những người khác, nên anh được tha với lời giáo dục răng đe. Thế nhưng anh là một người say mê rừng đến nỗi không thể trở về đời sống bình thường được. Hằng đêm giật mình cứ nghe tiếng chim, cứ thấy cây cối xung quanh mình. Cuối cùng anh đánh bạo viết đơn xin được sống trong rừng. Đơn của anh được nhận. Anh được gởi đi Pháp học mấy năm về ngành Lâm học. Và hôm nay trở thành một chuyên gia về rừng có hạng và trở nên một người bảo vệ rừng đắc lực nhất. Có lẽ ông trộm lành của chúng ta cũng là trường hợp tương tự như trường hợp của anh chàng lâm tặc ấy. Ngày hôm nay không biết ở trên Thiên đàng anh ta có thành người gác Thiên đàng cùng với thánh Phêrô không, nhưng mỗi lần đọc lại lời thứ hai của Chúa Giêsu trên Thập giá, có lẽ không bao giờ người ta quên khuôn mặt và tên tuổi của anh. Hôm nay, hôm nay của muôn đời anh đã được vào Thiên đàng cùng Đấng Cứu Thế.

 

 3. Để sáng lên chân dung Đấng Cứu Thế

 

Lang thang từ lời của ông trộm lành sang lời của Chúa Giêsu, có lẽ mỗi người rất tự nhiên thấy sáng lên chân dung của Đấng Cứu Thế là Đấng luôn gieo niềm hy vọng. Hoạt cảnh hôm nay của lời thứ hai vẫn là hoạt cảnh của tuần thương khó, tuần khó thương, mà Con Thiên Chúa đã đón nhận vào đời mình. Thế nhưng ở đây, người ta đã gặp một dung mạo khác hẳn với những dung mạo của những tử tội khác cho dẫu đó là ông trộm lành, ông trộm dữ khỏi phải nói. Thánh Phaolô đã có dịp nói nhiều lần không phải vì chuyện này nhưng mà vì chuyện đặt trong khung cảnh này: Đức Kitô một khi đón nhận vào mình cái chết thì không phải vì Ngài, mà Ngài chết vì chúng ta. Trong Kinh Tin Kính tuyên đọc ngày Chúa nhật hay ngày Lễ trọng vẫn có chữ “vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta…” rõ ràng là chữ vì ta, vì chúng ta ở đây là một chữ giàu ý nghĩa nhất, ám hợp với Đấng Cứu Thế hôm nay trên Thánh giá khi phán ra lời yêu thương, lời oai phong nhất dành cho ông trộm lành.

 

 Ngài chết vì ta. Trong các sách chú giải, người ta vẫn nên lên ba ý nghĩa của chữ “vì chúng ta”. Nghĩa thứ nhất: Ngài chết vì ta; Nghĩa thứ hai: Ngài chết thế chỗ cho ta đáng lẽ phải chết; Nghĩa thứ ba: Ngài chết để đem lại cho ta sự sống. Mỗi lần hát bài của Kim Long: “Vì thương con Chúa chết ô nhục trên Thánh giá”. Ngừơi ta thấy Chúa chết vì yêu thương như thánh Phaolô đã nói rõ: “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi ta, nhưng Ngài đã sống lại cho ta được sống muôn đời”. Nghĩa là giữa chết vì yêu ta và chết vì tội lỗi ta, không có gì đối nghịch cả, mà trái lại đó là hai mặt của cùng một cái chết cứu độ Đức Kitô đón nhận vào mình, để rồi mở ra cho ta cánh cửa yêu thương, cánh cửa hy vọng.

 

Ngài chết thay cho ta. Loài người bất trung bất tuân trong thân phận Adam đáng lẽ phải chết, thì Ngài, Adam Mới, đã đón nhận vào mình cái chết, chết thay cho mọi người.

 

Ngài chết cho ta được sống. Chính ở đây, Ngài đã để lại nét cuối cùng trong chân dung của Ngài, vốn đã được phác vẽ qua những lời dạy trong Tin Mừng. Nếu như Đấng Cứu Thế trong cuộc đời của mình đã không nỡ dập tắt tim đèn còn khói, thì hôm nay, trên Thánh giá, chỉ với lời cậy trông mỏng manh của ông trộm lành, Ngài đã khơi dậy một con đường mới, mở toang cho anh ta cánh cửa Thiên đàng.

 

Trong bản phác thảo về hoạt cảnh Golgotha của một điêu khắc gia, tôi gặp thấy ba cây thập tự truyền thống: cây giữa của Chúa Giêsu, một cây của ông trộm lành và một cây của ông trộm dữ. Điều lạ là mỗi cây đều có những nét riêng: Chúa Giêsu tất nhiên cùng với dáng hình muôn thuở, tay chân đinh đóng cẩn thận như trong giáo đường. Ong trộm dữ thì chân cũng bị đóng đinh, một tay cũng bị đóng đinh, nhưng tay kia xỉa xói vào mặt Đấng Cứu Thế. Còn ông trộm lành thì dĩ nhiên cũng vẫn bị đóng đinh hai chân và một tay, nhưng tay còn lại ấp trên ngực của mình. Không biết được gợi hứng thế nào, nhưng nhìn vào bản phác thảo, người ta dễ nhận ra dụng ý về niềm hy vọng. Đấng chịu đóng đinh giang tay là Đấng trao ban niềm hy vọng cho những ai biết đặt niềm tin tưởng nơi Ngài.

 

II. LINH MỤC VÀ NIỀM HY VỌNG

 

Trong phần thứ nhất, rảo qua lời ông trộm lành và lời Đức Giêsu hứa với ông “Hôm nay abg sẽ được ở trên Thiên đàng với ta”, để thấy sáng lên chân dung của Đấng Cứu Thế, Đấng gieo niềm hy vọng cho tất cả mọi tâm hồn. Vậy thì trong đời Linh mục, khi soi bóng mình trong bóng Thánh giá, trong chân dung của Đấng Cứu Thế, Đấng gieo niềm hy vọng, ta gặp được những chỉ dần nào cho cuộc sống hôm nay.

 

 1. Về thực chất, mỗi Linh mục phải là tác nhân của hy vọng.

 

 Nói theo kiểu của ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận thì mọi người được mời gọi phải trở thành chứng nhân của niềm hy vọng. Thật vậy, ngay trong thánh chức của mình, xét về khía cạnh mầu nhiệm, mỗi người trở thành đồng hình đồng dạng với Đức Kitô một cách trọn vẹn hơn, bởi vì mình thuộc về Đức Kitô, đời sống của mình hướng về Đức Kitô, và tất cả mọi sinh hoạt của cuộc sống mình cũng tìm về Đức Kitô để có được ý nghĩa tròn đầy. Chính vì vậy, ở đây, mỗi Linh mục trong thánh chức, về phương diện mầu nhiệm, đã trở thành dấu chỉ hy vọng cho những người đồng thời với mình, nói to tát là như thế. Xét về khía cạnh hiệp thông, mỗi người lại trở thành thừa tác viên phân phát niềm hy vọng cho những kẻ thuộc về mình ở trong sứ vụ được trao phó cho mình. Và khỏi phải nói đến khía cạnh truyền giáo, vì mỗi Linh mục sống trọn vẹn niềm hy vọng của mình, và trở thành chứng nhân hy vọng nơi cuộc sống thì sẽ trở thành điểm sáng soi bóng cho những người chung quanh.

 

Tương lai đã bắt đầu từ ngày hôm nay, Nước Thiên Chúa đã gieo mầm nơi trần thế này, và Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa vắng mặt mà là Thiên Chúa luôn hiện điện trong đời hiến dâng của các Linh mục hôm nay. Không thiếu những trường hợp các Linh mục sống niềm hy vọng luôn luôn nỗ lực nêu gương sáng, chu toàn sứ vụ của mình giữa lòng dân Chúa. Sẽ là niềm hạnh phúc rất lớn, còn lớn hơn hạnh phúc của ông trộm lành ở đây nữa, nếu như mỗi Linh mục sống đúng chức vụ của mình, cả ở trong khía cạnh mầu nhiệm, hiệp thông và truyền giáo, nhưng sẽ là một thất vọng nếu Linh mục không trở thành một dấu chứng về niềm hy vọng mình mang trong đời gắn liền với ấn tích Bí tích Truyền Chức.

 

Thực chất, mỗi Linh mục phải là chứng nhân của niềm hy vọng cho dầu cuộc sống luôn luôn còn đó những khó khăn và cho dẫu mỗi thời luôn đặt ra những thách đố mới. Những xứ đạo lớn có thể có những thách đố lớn, những xứ đạo nhỏ có thể có những thách đố mà những xứ lớn không biết đến. Những xứ đạo tại thành phố lớn ngày hôm nay đang phải tiếp cận với những vấn đề sôi bỏng của việc đô thị hóa, thị trường hóa, toàn cầu hóa về mọi mặt. Giới trẻ ngày hôm nay cũng có những vấn đề riêng mà Linh mục, tác nhân của niềm hy vọng, cũng được mời gọi để tiếp cận, mong thể hiện niềm hy vọng nơi cuộc sống của mình, để có thể cuốn hút được những bạn trẻ giữa những thách đố mới trong cuộc sống của họ. Làm sao để gieo niềm hy vọng về một tương lai đang bắt đầu từ ngày hôm nay? Làm sao để có thể nói về Nước Thiên Chúa một cách hoàn hảo, một cách hạnh phúc trong khi cuộc sống trần thế này đang bị bó hẹp, đang bị giới hạn cách này cách khác? Và làm sao chứng mình được về một Thiên Chúa, về một Đức Kitô luôn luôn hiện diện giữa những giới hạn và nhất là giữa những thất vọng nhiều mặt của những vấn đề mới đang đặt ra cho xã hội? Đây là cả một vấn đề lớn đặt ra cho mỗi Linh mục xét như tác nhân của niềm hy vọng

 

 2. Nhưng trong thực tế, Linh mục nhiều khi chưa hết mình với niềm hy vọng.

 

Thực chất là thế, nhưng thực tế có những yếu tố chứng minh ngược lại. Nói trắng ra, Linh mục vô tình đã có một vài cử chỉ nào đó có thể gieo thất vọng cho người này người kia, hoặc là thất vọng cho bề trên, hoặc là thất vọng cho những giáo dân của mình. Khía cạnh thực tế này được nghiệm qua những lời giáo dân phản ảnh với Tòa Giám Mục, rằng: Linh mục A, Linh mục B nóng nảy quá! Linh mục B, Linh mục C có những biểu hiện của sự khó dễ đối với các tín hữu. Và nhất là có thể có một hai Linh mục đã trở thành những con sâu làm giảm hương vị thơm ngon của nồi canh tập thể Linh mục đoàn. Đó là khi Mục tử có gương xấu, nhất là ở trong khía cạnh biện chứng giữa phục vụ và được phục vụ, nhiều khi mang dấu ấn thực dụng ngày nay.

 

Nếu mấy cha để ý sẽ nghe mấy cô gái nhà quê lên tỉnh rỉ tai nhau rằng: “Thà làm bé của ông lớn, còn hơn làm lớn của ông bé”. Bởi vì xét cho cùng làm bé của ông lớn nhà cao cửa rộng dầu sao vẫn có rủng rỉnh đồng ra đồng vào, nhưng làm lớn ông bé nhà quê thì vẫn quanh năm cày sâu cuốc bẫm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Thế nên mới có việc lấy chồng ngoại kiều, mới có kiểu đứng ra cho người ta tuyển lựa làm vợ Việt kiều v.v.. Nhất muối tiêu nhì Việt kiều, đang là những chuẩn mực lựa chọn nhiều khi để lại những hậu quả khó lường.  Dấu ấn thực dụng nơi người trẻ đã làm thất vọng cho nhiều người, nếu một dịp nào đó dấu ấn ấy được nhận ra nơi một vài Linh mục thì ắt sẽ không tránh khỏi sự thất vọng lớn hơn. Xem ra động thái của Linh mục trong thực tế càng ngày càng bị đòi hỏi nhiều để làm sao có thể biện minh cho niềm hy vọng và giáo lý hy vọng mà Linh mục phải mang và chuyển tải đến môi trường chung quanh. Tôi biết có một số người bỏ bê đạo giáo chỉ vì Mục tử ở đó không cho thấy được tính thống nhất của lời giảng dạy và cuộc sống cá nhân. Ngôn hành bất nhất. Nếu Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II có nhận định rằng con người ngày nay không thích bị tra tấn bởi những ông thầy, mà chỉ thích để mình bị thuyết phục bởi những chứng nhân, thì điều đó xem ra cũng ám hợp ở đây cho các Linh mục trong nhiệm vụ phải biện bạch về niềm hy vọng của mình.

 

3. Trong thực hành, Linh mục phải làm gì để niềm hy vọng được vươn lên?

 

 Nếu như thực chất Linh mục là dấu chỉ của niềm hy vọng và thực tế mỗi một Linh mục đòi bụôc phải thể hiện niềm hy vọng trong đời sống của mình, thì về phương diện thực hành. Linh mục phải làm sao cho niềm hy vọng được sáng lên trong đời. Đây chính là một dấu chấm hỏi mở ra cho những suy tư của từng người. Khi đối diện với mầu nhiệm Thánh giá hôm nay, nhất là khi chất vấn chính lương tâm, chất vấn chính đời sống của mình qua ánh sáng của lời Chúa hứa với ông trộm lành “Hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên đàng với Ta”, chắc chắn mỗi người sẽ có những quyết tâm nho nhỏ cho đời mục tử của mình.

 

Quyết tâm dễ thực hiện nhất và có lẽ cũng dai dẳng nhất đó là quyết tâm đừng bao giờ dập tắt niềm hy vọng nơi chính cuộc sống của mình cũng như nơi những người thuộc về mình. Nếu như Đấng Cứu Thế là Đấng gieo niềm hy vọng cho đến khi chịu chết trên Thánh giá vẫn không ngừng gieo vãi, Ngài đã không dập tắt tim đèn còn khói (Mt 12,10), mỗi một Linh mục cũng sẵn sàng khơi lại niềm hy vọng cho những người thuộc về mình, bởi vì niềm hy vọng ngày hôm nay là một nhu cầu phổ biến khắp nơi. Mua sắm vé số là mua niềm hy vọng, mong cho một tương lai sáng hơn . Bởi tìm trong đống phế thải một chút gì đó như những em ve chai cũng là bới tìm niềm hy vọng. Và mỗi người trong khi vật lộn với chính mình để khai trừ đi những bóng tối tội lỗi cũng là đang khơi lên niềm hy vọng cho chính đời sống cũng như tác vụ của mình. Để đến khi mình biết khơi lên niềm hy vọng nơi những cảnh đời bất hạnh, nơi những cảnh đời bị giới hạn được trao về tay mình trong sứ vụ ở một xứ đạo, ở đó những gia đình đang bị tan vỡ, có những bạn trẻ đang gặp khó khăn về công ăn việc làm, có những thiếu nhi đang thiếu hụt về tài chánh để có thể tiếp tục học, như chúng ta vẫn thường làm qua những quỹ tình thương, qua những quỹ học bỗng hay là qua những việc cứu trợ đó đây, thì thiết nghĩ đó cũng là nỗ lực gieo niềm hy vọng trong tinh thần yêu thương.

 

Nếu như Đấng Cứu Thế đã biện hộ cho tội nhân và mở cửa Thiên đàng cho ông trộm có lòng sám hối, thì mỗi Linh mục cũng được mời gọi để biết tin hơn vào tương lai của người khác trong ơn cứu độ. Chẳng thánh nhân nào mà không có dĩ vãng, cũng thế, chẳng tội nhân nào mà không có tương lai. Từ đó những hệ lụy mục vụ có thể hình thành: Linh mục chẳng những là tác nhân xây dựng hy vọng, mà nhiều khi còn chấp nhận trở thành nạn nhân của niềm hy vọng nữa, sẵn sàng chịu thua chịu thiệt một chút gì đó trong đời như thời giờ, tiền bạc, sức khỏe, miễn sao đối tượng phục vụ được lớn lên trong ơn thánh.

Kết:

 

Dịp Giáng Sinh 2005, có một Linh mục trẻ ở Saigòn được một gia đình tân tòng gồm năm người chọn để rửa tội cho gia đình họ. Gia đình này đã theo học lớp giáo lý tân tòng năm năm trứơc đây và vẫn đi lễ Chúa nhật đầy đủ. Lý do dịp này mới rửa tội là vì Linh mục họ tín nhiệm để ký thác linh hồn phải vắng nhà lên đường du học. Qua tâm sự, được biết thêm lý do vào đạo của cả gia đình là sự mến phục trước gương sống đạo đức của Linh mục đó khiến họ nhận ra tín hiệu hy vọng. Mong rằng mỗi Linh mục khi suy niệm và soi rọi đời mình qua lời thứ hai trên Thánh giá cũng sẽ gặp được ánh sáng cho bước đường mục vụ hiện tại và tương lai.

 

(Trích tài liệu nội bộ của Giáo phận Phú Cường )

 

Mục lục

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

 

Thánh Phanxicô Possenti, Quan Thầy Chủng Sinh

 

Ngày 13-5-1920, tại đền thờ thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Benedetto XV (1919-1922) nâng thầy Francesco Possenti, 24 tuổi, người Ý thuộc dòng Thương Khó, lên hàng hiển thánh. Năm 1926 Đức Thánh Cha Pio XI (1922-1939) tuyên phong thánh nhân làm quan thầy chủng sinh và tu sĩ sinh viên.

Cuộc đời ngắn ngủi thánh thiện của thánh Possenti minh chứng: mặc dầu con người yếu đuối hay sa ngã, nhưng có thể nên thánh, dưới tác động của ơn Chúa.

Sinh ngày 1-3-1838, tại Assisi (Trung Ý), Francesco Possenti là con thứ 11 trong một gia đình Công Giáo khá giả. Mồ côi mẹ năm lên 4 tuổi, Francesco được thân phụ yêu thương và chu đáo dưỡng dục. Ông gởi con trai học nơi trường các sư huynh Lasan ở Spoleto, cách Assisi khoảng vài chục cây số. Sau đó ông gửi con học tại trường Các Linh Mục Dòng Tên. Tại đây cậu Francesco được huấn luyện kỹ lưỡng.

Một tính xấu nổi bật nơi Francesco là tính giận dữ, nhất là khi cậu bị trái ý. Tuy nhiên cậu luôn luôn cố gắng chống lại tính hư này. Ngoài ra, Francesco rất thích bay bướm! Cậu giao thiệp với những bạn bè ăn chơi và tham dự vào cuộc vui phóng đãng của họ.

Cuộc đời hiện ra trước mắt Francesco thật đẹp! Nhưng giữa lúc cậu gần như bị rơi vào tội làm hoen ố tấm áo trinh khiết của tâm hồn, thì một cơn bệnh nặng đổ ập xuống, khiến cậu dừng lại đúng lúc, không rơi vào bước đi quá trớn của tuổi trẻ.

Một tính xấu khác nổi bật nơi Francesco là hứa hẹn rất nhiều nhưng không tuân giữ bao nhiêu! 3 ví dụ điển hình minh chứng việc trốn chạy thi hành lời hứa:

- Năm 16 tuổi rưỡi, khi bị đau nặng, Francesco cầu nguyện và hứa với Chúa: ”Xin Chúa chữa con lành và con sẽ đi tu làm thầy dòng”. Nhưng một khi khỏi bệnh, chàng trai quên bẵng lời hứa hẹn với Chúa! Chàng tiếp tục cuộc sống ăn chơi, như không có chuyện gì xảy ra.

- Cơn bệnh thứ hai giáng xuống trên người chàng, như lời cảnh cáo nhắc chàng phải nhớ giữ lời hứa. Lần này, trong cơn bệnh nặng, chàng lại hướng về Cha André Bobola - Linh Mục dòng Tên người Ba lan - vừa được tôn phong chân phước (1853). Francesco tha thiết khẩn cầu: ”Là vị tử đạo anh hùng và luôn tìm kiếm linh hồn cho Chúa, xin chân phước chữa con lành. Sau đó con sẽ đi tu làm thầy dòng. Con xin hứa như vậy đó!” Thế rồi chàng khỏi bệnh và lần này cũng giống như lần trước, chàng quên ngay lời hứa hẹn. Chàng trở lại nếp sống phóng đãng!

- 6 tháng sau, Francesco bị một thử thách nặng nề khác. Lần này cơn bệnh không giáng xuống trên chàng nhưng trên chị gái yêu quý nhất. Chị chàng bị bệnh dịch và qua đời. Chàng vừa khóc thương chị vừa nói với thân phụ: ”Đây là lời mời gọi và là một nhắc nhở. Thế nào con cũng phải đi tu!”

Biết rõ tính con, cha chàng cản ngăn: ”Phải đợi thêm ít lâu nữa. Biết đâu con lại đổi ý. Tuổi trẻ chóng quên lắm!” Và đúng thật như vậy. Francesco một lần nữa làm ngơ trước dấu hiệu THIÊN CHÚA gởi đến nhắc chàng phải thi hành lời đoan hứa.

Phải đợi đến biến cố cuối cùng mới khiến chàng thật sự trở về với THIÊN CHÚA. Tại Spoleto, hàng năm, cứ sau lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời là giáo xứ tổ chức tuần tám ngày rước Ảnh kính Đức Mẹ. Năm đó - 1856 - Francesco đúng 18 tuổi. Chàng tò mò chen vào đám đông để nhìn bức ảnh Đức Mẹ MARIA. Bỗng chàng như trông thấy Đức Mẹ nhìn chàng và mỉm cười với chàng. Rồi chàng nghe tiếng Đức Mẹ nói với chàng:

- Francesco con à, thế gian không phải của con. Con phải đi tu. Con chẳng thề hứa như vậy sao?

Xúc động trước lời nhắc nhở đến từ Hiền Mẫu Thiên Quốc, lần này, Francesco cương quyết từ bỏ tất cả và xin vào dòng Thương Khó.

Ngày 21-9-1856, Francesco lãnh nhận tu phục với tên mới ”Thầy Gabriel Đức Mẹ Sầu Bi - Gabriele dell'Addolorata”. Vị tân tu sĩ lấy châm ngôn cho đời sống: ”Phải vui tươi chứ không được buồn sầu, khi THIÊN CHÚA gởi đau khổ đến cho chúng ta”.

Không bao lâu sau ngày khấn, thầy Gabriel bị bệnh phổi. Cơn bệnh lan thật nhanh và thầy thường xuyên ho ra máu. Cha Bề Trên nói với thầy:

- Con nên xin Chúa chữa khỏi bệnh!

Thầy trả lời:

- Con đã xin nhiều lần rồi! Lần này con sẽ xin Chúa cho con ơn chết lành.

Và thầy Gabriel toại nguyện. Ngày 27-2-1862, Thầy Gabriel Đức Mẹ Sầu Bi - Francesco Possenti - êm ái trút hơi thở cuối cùng sau khi kêu lớn tiếng 3 danh Cực Thánh: ”GIÊSU, MARIA, GIUSE”.

... ”Xin đặt em như chiếc ấn trên trái tim anh, như chiếc ấn trên cánh tay anh. Phải, tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng. Nước lũ không dập tắt nổi tình yêu, sóng cồn chẳng tài nào vùi lấp. Ai đem hết gia tài sự nghiệp mà đổi lấy tình yêu, ắt sẽ bị người đời khinh dể” (Sách Diễm Ca 8,6-7).

(Jean Huscenot, ”LA SAINTETÉ AVANT 30 ANS, C'EST POSSIBLE”, E. du Chalet 1991, trang 94-96).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

20/3/2007

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

PHỤC THIỆN

 

 

 Anh chị tuy phải là một, nhưng vẫn còn là hai. Là hai thì phải khác biệt. Khác biệt, nhưng phải nên một, điều đó đòi hỏi cả hai phải chấp nhận sự bất đồng, biến sự bất đồng của nhau thành niềm vui của sự khám phá, một món quà: người này dâng tặng người kia.

 

Mọi người, dĩ nhiên không loại trừ anh chị, thông thường đều nghĩ rằng: Cách nhìn của mình về cuộc sống là đúng nhất. Anh cho suy nghĩ của mình là đúng, chị cũng cho suy nghĩ của mình là không sai. Anh muốn chị chấp nhận quan niệm của mình, chị cũng muốn anh phải theo ý chị. Cả hai đều có những cách nhìn riêng. Vậy thì tại sao không để cho người kia có cái riêng của họ? Tại sao anh hay chị lại bực bội, khó chịu, khi bên kia bày tỏ ý kiến không giống mình? Câu trả lời nằm ở chỗ, cả anh cả chị đều sống trong những thực tế cá biệt của riêng mình. Mỗi người đều chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố và hoàn cảnh cá biệt. Tuổi thơ và những kinh nghiệm sống của anh hoàn toàn khác với chị. Từ cơ sở đó, những nhận thức của anh về cuộc sống cũng khác chị. Gặp một cảnh huống, anh có thể không chịu nỗi, nhưng với chị, lại là chuyện bình thường. Hai cái khác gặp nhau, nếu không biết dung hòa là phải sứt mẻ.

 

Khác biệt giữa anh chị không phải để xung khắc, mà để hợp đồng xây dựng tổ ấm. Chỉ cần hợp đồng khi có bất đồng. Nếu giống nhau hoàn toàn, thì chẳng cần tốn công để “Hợp ”. Không tốn công “Hợp ”, thì cũng chẳng có niềm vui hiệp nhất. Nhiều ý kiến hợp lại, nhất định sẽ có nhiều phương án giải quyết khó khăn, hơn là chỉ có một.

 

Bởi đó, anh chị nên tâm niệm: Chứng minh khác biệt nhau ư? Điều đó không sao cả. Đàn ông thích đàn bà, vì đàn bà khác hẳn đàn ông. Nếu đàn bà như đàn ông, thì ngoài mấy ông Pê đê ra, chẳng thể nào hấp dẫn được các chàng Adam.

 

Nếu chị có vấn đề gì không đồng quan điểm với anh, anh hãy quảng đại nhìn nhận: Đây không phải là xung khắc, mà chỉ là cách nhìn vấn đề một cách khác. Chấp nhận được như thế, rất có thể anh sẽ thích thú, vì có thêm một giải pháp mới. Và thay vì sửa đổi vợ, anh sẽ biết ơn chị.

 

Anh chị hãy cố tạo cho mình cung cách “Đồng ý với sự bất đồng ”. Anh chị vẫn có thể duy trì ý kiến riêng mình, nhưng đồng thời phải tôn trọng ý kiến của người bạn. Cả hai đều làm thế, thì mọi căng thẳng và tranh cãi vô ích, sẽ được xóa nhòa. Anh chị sẽ dần dà biết quan tâm tới nhau hơn, biết khơi dậy những gì tốt đẹp nơi nhau, để trao và tặng nhau. Cả hai, vì thế, đều có lợi. Cuộc sống, cũng từ cơ sở này, trở nên đáng sống hơn, hạnh phúc hơn. Và niềm vui sẽ thay thế cho nỗi buồn.

 

Chung sống với một người cố chấp, quả thực, là gánh nặng khó vác. Người cố chấp chẳng bao giờ thấy được lẽ phải nơi người khác. Họ chỉ thấy cái phải ở mình. Dù cái phải đó là cái “Ngang” không chịu nỗi.

 

Một gánh nặng khó vác, mà phải vác và vác suốt đời, thì khổ cực nói sao cho hết. Khổ quá, nhiều người chịu không xiết, đành liệng luôn đi. Thế là tan vỡ.

 

Chắc chắn anh chị chẳng muốn điều đó xảy ra. Không muốn hậu quả, thì phải chặt đứt căn nguyên, căn nguyên ở đây chính là sự cố chấp.

 

Muốn diệt mầm xấu, phải trồng cây tốt vào đó. Cây tốt đã mọc lên, mầm xấu sẽ không phát triễn được, nếu có nhú lên, thì cũng chỉ èo ọt. Cây tốt đây chính là sự phục thiện.

 

Nếu có việc phải tranh cãi, anh chị cứ tranh cãi, vì đó là cách làm sáng tỏ sự thật, là cung cách dân chủ. Trong Quốc Hội, các dân biểu cũng đã làm thế. Nhưng một điều không thể thiếu, là phải phục thiện.

 

Trường hợp lẽ phải nghiêng về phía anh, chị phải chấp nhận anh. Ngược lại, nếu ngả về phía chị, anh phải hy sinh tư kiến của mình.

 

Để có thể biết được đâu là phải, đâu là trái, anh chị cần tạo cho mình một lương tâm ngay chính. Lương tâm bao giờ cũng thẳng, chỉ con người làm nó cong đi mà thôi. Để nó khỏi cong, anh chị hãy tập nghe tiếng nó. Khi nghe được, là thực hiện ngay điều đã nghe. Khi đã quen với cách làm đó, là anh chị đã có được lương tâm ngay chính. Nhờ đó, có thể biết được đâu là thiện, để phục thiện.

 

 

Trích tập sách “ Tình không như la mơ” của Lm Hồng Nguyên

 

BẠN CÓ MUỐN LÀ “NGƯỜI ĐƯỢC YÊU”

 

 Dẫn nhập

 

 Con người được sinh ra trong tình yêu và chỉ hạnh phúc khi được sống trong tình yêu. Tình yêu gắn liền với cuộc đời của mỗi người. Vì thế, yêu và được yêu là một nhu cầu từ khi con người còn là bào thai cho đến khi tắt thở. Nói cách khác, tình yêu là nguồn sống, là sức sống, là ý nghĩa sống, là khát vọng cuối cùng mà mỗi người luôn hướng tới.

 

Nhưng tình yêu là một mầu nhiệm. Hạnh phúc và đau khổ là hai mặt của thực tại tình yêu. Vẫn biết rằng yêu là đau khổ, nhưng trong đau khổ có hạnh phúc. Đúng hơn, thách đố, đau khổ là một cơ hội để chứng minh tình yêu:

 

 “Tình yêu mạnh hơn sự chết” (Dc 8,6)

“Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua”.

 

 Tình yêu thật đa dạng: yêu cha mẹ, yêu bạn bè, yêu đồng loại, yêu thiên nhiên. Trong bài này tôi muốn trao đổi về một nghệ thuật sống thế nào để trở nên người được  yêu, người hạnh phúc, trong một xã hội mà “tình yêu” phải để trong ngoặc kép, một xã hội tiêu thụ, tất cả đều là hàng hóa có hàng giả, người giả và tình yêu giả.

 

Các nhà tâm lý giáo dục nhân bản đã đưa ra một bí quyết như sau: “Muốn là người được yêu, bạn hãy tập cho mình những thói quen tốt”.

 

 1. Những thói quen đáng yêu:

 

 Với khuôn mặt vui vẻ của người trẻ, bạn hãy tập thói quen luôn chào hỏi thầy, cô, bạn bè và “đi thưa về trình” đối với ba mẹ trong gia đình.

 

Lời cám ơn tuy đơn giản nhưng khi đã thành thói quen phản xạ tự nhiên, bạn thực sự xinh đẹp không những nở hoa trên gương mặt mà đặc biệt là phẩm cách nữa đó. Lòng biết ơn thể hiện qua lời nói và cách sống chính là thái độ dễ thương nhất để đón nhận thêm những ơn mới đó bạn ạ.

 

Lời xin lỗi được nói đúng nơi đúng lúc, bạn sẽ được mọi người cảm phục và yêu quí, vì ai cũng trân trọng người trung thực và khiêm tốn. Nhưng chỉ khi bạn luyện tập thành thói quen, bạn mới có thể dễ dàng xin lỗi khi làm phiền lòng người khác.

 

Khi bạn có được nếp sống ngăn nắp, sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng, tác phong lịch sự bạn cũng là một điểm thu hút đấy.

 

Với những thói quen nhân bản: chào hỏi, cám ơn, xin lỗi và sống nề nếp sạch sẽ; tuy đơn giản, nhưng bạn đã tạo được một truyền thống tốt, trong gia đình bạn là người con hiếu thảo, ngoài xã hội bạn được đánh giá là người có giáo dục.

 

 2. Thói quen tự chủ

 

Nền giáo dục nhân bản truyền thống đã khắc sâu vào tâm trí bạn là không được sống buông trôi theo bản năng. Muốn thế, bạn hãy tập cho mình thói quen biết sử dụng tự do, đó là thái độ tự chủ trong lời nói, phản ứng và tâm tình. Tự do không phải là được làm mọi điều mình thích nhưng là khả năng điều khiển được dục vọng của mình để chỉ chọn những điều giúp mình trở nên tốt hơn.

 

Đặc biệt là khi có mâu thuẩn trong quan hệ, qui luật chung để vệ sinh tinh thần là phải bộc lộ, nhưng hãy biết tự chủ để chuyển cơn giận thành lời phát biểu rõ ràng về chính mình một cách quyết tâm nhưng dịu hòa, chỉ nói lên tình cảm của mình và dừng lại ở đó, tuyệt đối không đánh giá người khác bằng cách phê bình về cá tính hay ý định của họ.

 

Muốn thế, đề nghị bạn:

-  Hãy biết suy nghĩ thay vì phản ứng trước hoàn cảnh vì chẳng khôn ngoan chút nào nếu bạn chọn một quyết định, hay cố gắng làm thay đổi mối liên hệ vào lúc bạn đang nổi giận và căng thẳng.

-  Hãy ngừng trách móc, ngừng chẩn đoán. Hãy từ từ. Hãy chờ suy nghĩ sáng suốt hơn vì trong cơn giận bạn khó suy nghĩ đúng. Khi đó bạn có thể hỏi mình: “Tại sao sự góp ý của người đó làm cho tôi khó chịu? Vấn đề của tôi là gì? Liên hệ giữa chúng tôi đang kẹt ở mô hình cư xử nào? Và tôi giữ vai trò nào trong mô hình cư xử đó?” Chỉ sau khi ngẫm nghĩ những câu hỏi đó bạn mới có khả năng nói với đối tượng những gì đã làm bạn bực mình mà không phê bình cá tính và lối cư xử của họ.

 

 3. Thói quen lãnh trách nhiệm:

 

 Nếu bạn muốn chứng minh rằng mình đã lớn, bạn nên can đảm nhận trách nhiệm. Bạn hãy cố gắng làm tốt những công việc đã nhận, và khi thất bại, bạn cũng đừng tìm cách đổ lỗi cho người khác và hoàn cảnh. Trái lại, bạn hãy nhận ra giới hạn của mình, nhìn lại để rút kinh nghiệm và xin sự hướng dẫn thêm của người phụ trách để có thể làm tốt hơn. Những người nhút nhát sợ trách nhiệm, không dám bắt đầu một việc gì thì sẽ không bao giờ phát triễn được tiềm năng của mình. Những người không biết khắc phục khó khăn, là những người không bao giờ được hạnh phúc, vì hạnh phúc là con đẻ của đau khổ, vì chỉ qua thập giá mới có vinh quang. Khi bạn có thói quen lãnh trách nhiệm dù nhỏ bé, bạn sẽ là người thành công ngoài xã hội và được mọi người tín nhiệm.

 

Tóm lại, nếu bạn tập luyện được những thói quen trên, bạn luôn là người đáng yêu và được tôn trọng. Vì cái khác biệt duy nhất của người thất bại và kẻ thành công là sự khác biệt trong thói quen của họ. Những thói quen tốt là chìa khóa của thành công, những thói quen xấu là cánh cửa đóng kín của thất bại.

 

 Kết luận

 

 Qua những đặc điểm nêu lên ở trên, chúng ta có thể đưa ra kết luận rằng: Nếu muốn là người được yêu, chúng ta phải là người biết sống yêu. Tình yêu được cụ thể hóa trong thái độ sống tự trọng và tôn trọng tha nhân để có sự truyền thông thật vui và hạnh phúc trong gia đình, và trong quan hệ bạn bè. Tình yêu tạo nghị lực và nhân cách cho bạn thể hiện qua những hành vi có trách nhiệm, có hy sinh để phục vụ con người. Đó chính là Tin mừng được sống từng ngày gắn liền với chúng ta qua những thói quen tốt bé nhỏ dễ thương nhưng trong tình yêu nó đã trở nên lời chứng thuyết phục nhất.

 

Nt. Têrêsa Phạm Thị Oanh

 

ĐỌC SÁCH

 

 

Trang Hồi Ký của Toà Giải Tội

Ngày... tháng....năm....

Đã lâu không có ai vào đây, nhưng một mùa Chay nọ, câu chuyện xảy ra.

Người thanh niên ngồi dưới cuối nhà thờ lâu lắm. Người ấy đến đây mấy lần, chỉ ngồi trong nhà thờ thôi, không vào đây. Tôi là tòa giải tội lâu ngày không có người vào. Tôi cầu nguyện, tôi xin cho có một người vào đây với Chúa đi. Cây thánh giá treo trên tường cũng bụi bám, vắng thật vắng. Tôi cầu nguyện nhiều, và sau cùng, tôi thấy anh ta từ từ bỏ ghế ngồi đi lên. Lòng tôi hồi hộp cầu nguyện thêm, tôi xin cho anh đừng bỏ cuộc. Rồi, người thanh niên đến gần, ngó vào tòa giải tội, ngại ngùng. Tôi lại lấy hết tâm hồn cầu nguyện cho anh. Dáng đi của người thanh niên vất vả, có ai kéo anh lại? Tôi cầu nguyện thêm, cầu nguyện thêm. Sau cùng, người thanh niên giơ tay đẩy nhẹ cánh cửa, bước vào.

Tôi là tòa giải tội ở đây qua bao nhiêu thế hệ, gần trăm năm nay rồi còn gì, từ thế hệ cha ông của những người trong họ đạo này cơ mà. Như tôi viết ở trên, tôi chứng kiến rất nhiều thăng trầm của cuộc đời. Nhất là nhìn thấy không biết bao nhiêu biến cố lạ lùng đã xảy ra. Trong góc nhỏ nhà thờ này mà chứa không biết bao nhiêu phép lạ. Vì những phép lạ ấy rất hạnh phúc, rất riêng tư nên người ta muốn giữ kỷ niệm đó cho riêng mình, ít người nói ra.

Người thanh niên nói với Chúa:

- Lạy Chúa, mỗi lần đến với Chúa qua tòa giải tội này là đời con được tái sinh, con hạnh phúc hơn, yêu đời hơn, sao con vẫn cứ ngại ngùng hả Chúa?

Trên bóng thánh giá, Chúa nhìn người thanh niên trả lời:

- Con ạ, ma quỷ rất sợ tòa giải tội. Nơi đây là trận chiến thảm bại nhất của nó. Con có kinh nghiệm mỗi lần đến với Cha rồi ra về, lòng con vui hơn, cuộc đời nhẹ thênh thang, nhưng con vẫn ngại vì ma quỷ không muốn buông tha một người đang trên đường thuộc về nó. Lúc nào con ngại tòa giải tội là lúc ma quỷ gần con nhất. Nó đang giữ chân con lại. Chính lúc đó là lúc con lại cần tòa giải tội hơn lúc nào hết.

- Thưa Chúa, Chúa biết mọi tội con rồi sao con lại còn phải đến đây, sao Chúa không tha cho con đi?

- Con rất yêu quý của Cha, con hiểu lầm tình yêu của Cha trong tòa giải tội này rồi. Lòng của Cha luôn bao dung. Con không nhớ trước khi người con hoang đàng trong Phúc Âm trở về thì cha nó đã mong chờ nó rồi sao? Mong nó về là tha thứ hết rồi. Cha nó có hỏi tội nó đâu? Trước khi con đến đây, ngay khi con phạm tội, hôm đó lòng Cha buồn khôn tả. Con phạm tội xong, con bước đi u buồn lững thững, con giấu diếm Cha, con giấu diếm người chung quanh. Cha thấy thương con quá đỗi. Cha tha cho con ngay hôm đó rồi.

Người thanh niên im lặng lắng nghe. Anh trầm ngâm suy nghĩ. Một phút tĩnh mịch trôi qua. Lòng nhà thờ có con chim sẻ kêu chim chíp. Chúa thấy người thanh niên im lặng, Ngài nói tiếp:

- Cha chán tội, Cha không muốn nghĩ đến tội. Cha chỉ nghĩ đến tình thương và sự đau khổ. Cha thấy con lầm lũi đi, con không dám nhìn trời, con giấu diếm Cha. Con rước lễ mà lòng con chán ngán. Cha biết con đau khổ. Cha nghĩ đến khổ đau trong con. Con ạ, con là con của Cha.

Chúa mới nói tới đó thì người thanh niên cúi xuống tay ghế quỳ chảy nước mắt. Con chim sẻ bay ngơ ngác với tiếng kêu nhiêm nhiếp. Trong dòng nước mắt, người thanh niên cố nói như muốn trách Chúa thêm:

- Thế sao con lại phải đến đây?

- Con yêu quý, như con thấy, chỉ khi nào người con hoang đàng trở về nhà thì nó mới có ăn. Nếu không về, nó chết đói bên bầy heo. Cho dù người cha tha lâu rồi, nhưng không về nó vẫn chết vì đói. Sự tha thứ đã được ban ra, nhưng để lãnh nhận con phải giơ tay. Nhà cha có cơm gạo nhưng con sẽ đói nếu không ăn. Con hiểu ý của Cha không?

Cũng như chiều nay, khi con ngồi trầm ngâm trong nhà thờ, Cha thấy con, Cha thấy rõ con. Cha tha cho con lâu rồi. Cha tha cho con ngay khi con bước đi buồn bã vì tội trong con. Cha thương và Cha tha ngay.

Trong tiếng xót xa, người thanh niên hỏi Chúa:

- Cha tha mà sao lòng con cứ bối rối hoang vu?

- Con ạ, con không thể cảm nghiệm được tình thương của Cha cho đến khi con giơ tay lãnh nhận. Huyền diệu của tình yêu là chỉ khi nào người kia lãnh nhận thì tình yêu ấy mới thật sự thành tình yêu. Sự cao cả của tình yêu là tự do nên tình yêu không bao giờ đến từ một chiều. Khác biệt huyền diệu của tình yêu và sự thù ghét là sự tự do ấy. Khi thù ghét, người ta dùng bạo lực bắt người kia đau khổ. Tình yêu thì không, phải có người nhận tình yêu mới là tình yêu. Tình yêu cho đi mà không người nhận, tình yêu lại trở về với người đã trao ban. Người con hoang đàng không trở về sẽ không cảm nghiệm được sự tha thứ, không cảm nghiệm được tình thương của cha. Cho dù người cha có đẩy tình thương và sự tha thứ đi tìm kiếm nó, cũng sẽ không gặp nó.

Người thanh niên lắng nghe, quỳ im lặng. Tôi là tòa giải tội. Mỗi lần xảy ra như thế, lòng tôi hạnh phúc xót xa. Trong tôi có vui lẫn bùi ngùi. Trong xót xa có cái tiếc nuối, có thương tội nghiệp, có thật thà. Tôi mong có người đến với tòa giải tội là thế. Nơi ấy giữa Chúa và người ta gặp nhau cách kỳ diệu nhiệm mầu. Rồi người ta ra về với một trời mới, đất mới. Cỏ cây xanh tươi. Nắng chan hòa ấm cúng trong lòng người. Cứ mỗi lần chứng kiến như thế, đời tôi cũng hạnh phúc vô cùng. Vì thế, tôi cứ muốn làm tòa giải tội ở đây, dù cả tháng chỉ có vài người tới, tôi vẫn cứ muốn ở đây. Tôi lắng nghe tiếp Chúa và người thanh niên đang nói chuyện:

- Con đến tòa giải tội không phải tìm sự tha thứ mà để cảm nghiệm sự tha thứ. Cũng như người con hoang đàng, không phải về để cha tha, mà để cảm nghiệm sự tha thứ và được sống.

- Ngày con phạm tội, con ơi, con bước đi u buồn, con không dám nhìn Cha. Trên thập giá, Cha nhìn xuống tội nghiệp con. Về phần Cha, Cha luôn tha thứ cho con. Cha đẩy sự tha thứ đi kiếm tìm con. Nhưng để cảm nghiệm tình yêu ấy vào trong hồn con, lại tùy ở con có về để lãnh nhận hay không.

Con yêu dấu, khi con đến tòa giải tội giơ tay lãnh nhận, tình yêu là ơn cứu độ trên bàn tay mang dấu đinh ở cây thánh giá này đổ xuống tay con.

Cha quý ơn sủng của Cha vì bàn tay Cha rất đau, nên khi cho ai ơn sủng ấy Cha nhớ người đó mãi. Con có thể quên ngày hôm nay, cũng như con đã quên những lần xưng tội trước vì khi lãnh nhận con chỉ giơ tay. Tay con không đau như tay Cha. Còn Cha, Cha không thể quên con vì tay Cha đã rất đau đớn với ân sủng này.

Con ơi, khi cho người nào ân sủng ấy, Cha nhớ người đó.

Con chim sẻ lại bay. Nó ngơ ngác như muốn tìm một đường bay nào đó mà không rõ. Tiếng kêu chim chíp vang trong lòng nhà thờ vắng. Người thanh niên vẫn cúi đầu, nói với Chúa:

- Lạy Cha, xin thương xót con. Xin cho con cảm nghiệm được tình thương của Cha.

Chúa nhìn người thanh niên, chậm rãi nâng bàn tay rất đau đớn, ôm người thanh niên. Người thanh niên cúi đầu lãnh nhận. Tôi thấy mắt người thanh niên rướm lệ. Còn tôi, chiếc tòa giải tội gỗ, tôi lại chứng kiến một trời mới và một mùa xuân thiêng liêng mới đang nở trong lòng nhà thờ.

 

 

Lm. Nguyễn Tầm Thường, SJ.

( Trích trong “Cô Đơn Và Sự Tự Do”)

 

Mục lục